Chương 2
Bị cảnh tượng hỗn loạn trong thành trì hoãn, xe ngựa của Thích Bạch Thương phải chờ đợi đến lúc hoàng hôn, mới khó khăn chen ra khỏi cổng thành giữa dòng người tiễn đưa Trấn Bắc Quân.
Ánh tà dương rực rỡ như gấm, hoàng hôn nhuộm lên những dãy núi chiều lấp lánh ánh hồng.
Bóng lưng của Trấn Bắc Quân theo Tạ Thanh Yến về triều cũng dần hòa vào ráng chiều rực lửa nơi chân trời, không còn nhìn rõ nữa.
Một cánh chim cô đơn lượn vòng trên bầu trời, nương theo mây chiều, đậu xuống cành liễu cong bên ngoài cổng thành.
Đầu cành liễu lướt qua xe ngựa, Thích Bạch Thương ở trong xe cụp mi xuống.
Rèm cửa sổ bên hông xe được kéo lại, từ bên trong vọng ra một tiếng nhẹ nhàng và lười biếng:
“Đi thôi.”
“Vâng, cô nương.”
Tử Tô đáp lời rồi quất roi: “Vọt.” một tiếng.
Chiếc xe ngựa rời khỏi khu vực dân chúng ngoài thành vẫn còn đang dõi theo Trấn Bắc Quân.
Trong xe, Liên Kiều không kìm nén được sự nghi hoặc mà hiếu kỳ hỏi: “Tạ Thanh Yến thực sự không có trong kiệu sao? Vừa nãy cô nương cứ nhìn thẳng vào Trấn Bắc Quân như vậy, có phát hiện gì không ạ?”
Phải biết rằng, ngoài việc trong lĩnh vực y thuật luôn không lơ là, xứng đáng được gọi là siêng năng, thì cô nương nhà bọn họ đối với bất cứ chuyện gì khác đều là có thể đẩy thì đẩy, có thể tránh thì tránh.
Việc bất thường như hôm nay, thậm chí còn nán lại ngoài thành để xem Trấn Bắc Quân một lúc, thật sự rất kỳ lạ.
Khi chiếc xe ngựa đã rời khỏi cổng thành, bên ngoài không còn ai, Thích Bạch Thương – người từ sớm đã tựa vào bàn – lúc này mới nhàn nhã tựa trán, khẽ mở môi không thành tiếng hỏi: “Quân Trấn Bắc đi về hướng nào vậy?”
Liên Kiều nhớ lại: “Chúng ta đi về phía Đông, họ hơi chếch một chút, hình như là hướng Đông Nam ạ.”
Không đợi Thích Bạch Thương ngẩng đầu, Liên Kiều liền ngẩn người: “Không đúng, chẳng phải họ cũng giống chúng ta, đều phải đi về Kinh thành sao?”
Thích Bạch Thương khẽ nhướng mắt, nhưng không lên tiếng.
Thói quen nhiều năm đã thành vô thức, Liên Kiều không dám trông mong cô nương nói thêm vài câu ,đã tự mình đi tìm câu trả lời.
Nàng ta nhặt tấm bản đồ trên bàn bên cạnh lên, dùng đầu ngón tay so sánh giữa những thành trì và sông núi được vẽ nên: “…Nô tì hiểu rồi, chúng ta chọn con đường gần nhất, xuyên qua núi mà đi. Còn họ lại vòng qua nửa đoạn núi Ly Sơn trước khi vào kinh, đi đến Vận Thành trước, rồi mới vào kinh thành?”
“Ừ.” Thích Bạch Thương đáp lại, rồi lật qua một trang sách tiếp theo.
Liên Kiều nói: “Dựa theo danh tiếng của Tạ Thanh Yến bây giờ, khi đến Vận Thành chắc chắn cũng sẽ có cả thành đầy người chen chúc, hoa quả đón chào, làm như vậy ít nhất phải mất thêm một ngày mới có thể về kinh. Theo nôi tì thấy, người đó chi bằng đi đường xuyên núi như chúng ta còn tốt hơn.”
Thích Bạch Thương không bày tỏ ý kiến.
Ngoài rèm xe, Tử Tô lại hừ lạnh một tiếng: “Ngươi không có đầu óc sao?”
“Sao ta lại không có đầu óc — ” Liên Kiều vừa định nổi giận, chợt dừng lại: “Đúng rồi, Tạ Hầu gia căn bản không có ở trong kiệu được ban tặng. Vậy người đó làm rùm beng lớn như vậy, làm bộ làm tịch đi qua phố là để làm gì?”
“…”
Bên ngoài rèm không còn tiếng động nào nữa.
Liên Kiều tự mình nghĩ không thông nên dứt khoát quay đầu lại, đôi mắt long lanh nhìn về phía cô nương nhà mình.
Thích Bạch Thương cụp mắt nhìn cuốn sách y học trong tay mà không hề ngẩng đầu lên, giọng nói lười biếng chậm rãi vang lên: “Ta với người đó vốn không quen biết, làm sao biết được hắn nghĩ gì trong lòng.”
Liên Kiều lại không tin, áp sát vào hỏi: “Ôi chao cô nương, người chắc chắn đã đoán ra điều gì rồi, mau nói cho nô tì biết đi mà.”
“…Nếu ta là hắn.”
Thích Bạch Thương bị nàng ta lay đến mức sách cũng khó mà giữ được, cuối cùng đành bất đắc dĩ ngẩng đầu lên, đôi môi đỏ hơi mở:
“Đại khái là Minh tu sạn đạo, Ám độ Trần Thương * thôi.”
(*: Chỉ việc cố ý phô trương một hành động để đánh lạc hướng, trong khi bí mật thực hiện mục tiêu thật sự.)
—
Cách đó ba mươi dặm, tại con sông nhỏ bên trong núi Ly Sơn.
Nước ngọc uốn lượn quanh núi, gió chải bóng cây rừng, lẽ ra đây là một cảnh đẹp u tịch trong núi, nhưng tiếc thay, lũ chim nước đang chơi đùa với cá đã bị sát khí lạnh lẽo vừa rồi làm cho kinh hãi bay tán loạn.
Một đội kỵ binh với giáp mỏng và đao dài lặng lẽ dừng bên bờ sông, xếp thành hàng dài, cho ngựa uống nước bên bờ.
Đội này có khoảng trăm kỵ binh, nhưng khi dừng lại lại hoàn toàn im lặng, cho thấy kỷ luật nghiêm ngặt và sự tuân thủ mệnh lệnh của họ.
Ráng chiều trên bầu trời phủ lên lớp giáp mỏng vảy bạc, cháy rực như lửa.
Người dẫn đầu quay lưng về phía bờ sông, dừng ngựa dưới một cây hòe cổ thụ, dáng người cao ráo, đứng thẳng như cây ngọc quý.
Bên cổ của người đó có hình nhai tí đang cắn và nuốt lấy vai, toát ra vẻ uy nghiêm lạnh lùng, lại có một chiếc áo choàng dài thêu vân hạc bằng chỉ bạc rủ xuống từ dưới giáp vai, che khuất gần hết lưng chàng, chỉ còn lại tà áo phất phơ theo gió chiều.
Cũng giống như toàn bộ đội kỵ binh phía sau, người dẫn đầu đeo mặt nạ sắt đen để che đi dung mạo thật sự.
Mặt nạ sắt làm thành hình dáng hung ác của quỷ dữ, khiến người nhìn rợn tóc gáy. Chàng lại bình tĩnh cúi đầu xuống, chậm rãi và như theo một giai điệu cổ xưa mà lau chùi cây đao cán dài trong tay.
Dưới những khớp ngón tay thon dài như ngọc trúc của người đó, lưỡi đao của thanh đao mỏng manh nhưng sắc bén. Ánh tà dương chiếu lên trên đó, không những không làm giảm đi vẻ lạnh lẽo, mà ngược lại còn được tôn lên vẻ hung bạo như máu, càng thêm lạnh lẽo đáng sợ.
Mãi cho đến khi một kỵ binh phi nhanh đến từ bóng cây bên bờ sông, chớp mắt đã tới bờ.
Người đến lật người xuống ngựa, quỳ xuống hành lễ.
“Bẩm Chủ thượng, nửa canh giờ trước, người đó đã trốn vào rừng núi phía nam của Ly Sơn, chưa đầy một chén trà sau thì quân truy sát đã đuổi tới ạ.”
Bàn tay đang lau lưỡi đao chợt ngừng lại.
Không đợi người dưới mặt nạ quỷ dữ lên tiếng, một cái đầu đột nhiên nhô ra từ sau cây hòe cổ thụ ba người ôm mới hết.
“Nửa canh giờ? Thôi chết rồi, chờ chúng ta tìm được người thì hoa cúc vàng chắc cũng héo rồi, sợ rằng ngay cả xác nguyên vẹn cũng không còn.”
Chàng thiếu niên này cầm quạt xếp, vận áo bào trắng giản dị, mặt mày thanh tú, nom hệt như một thư sinh hiền lành chất phác, tiếc rằng cả cử chỉ lẫn giọng điệu đều phảng phất vẻ bất cần đời, lười biếng chẳng đâu vào đâu.
Lúc này người đó như thể chui lên từ dưới đất, trên người dính vài chỗ bụi, vừa đi vừa vỗ bụi xung quanh cây hòe cổ thụ.
“Vân… công tử.”
Người lính đang quỳ dưới đất báo cáo do dự một chút, rồi cũng hành lễ.
“Ta đã bảo gọi ta là Quân sư rồi mà.” Vân Xâm Nguyệt nói xong liền quay lại: “Tạ Diễm Chi, ta nhắc nhở ngươi một câu, chậm nhất là ngày kia kiệu rước phải vào kinh rồi. Nếu ngươi cưỡi ngựa về kinh, chưa nói đến việc hành tung bí ẩn gây nên sự nghi ngờ, chỉ riêng việc Vua ban tặng mà ngươi không cưỡi, chẳng lẽ ngươi muốn ngay ngày đầu tiên về kinh đã bị bọn Ngự sử Gián quan buộc tội sao?”
Thấy người đứng đầu khoác áo choàng vân hạc không hề lay động, Vân Xâm Nguyệt nhướng mày, nghiêng người dùng quạt che miệng và mũi.
“Hay là bỏ qua đi, dù sao ngươi cũng không chắc người trốn thoát kia có thực sự biết điều gì hay không. Việc chó săn ở Kì Châu truy sát ngàn dặm, có lẽ không liên quan đến ngân lượng cứu trợ thiên tai, mà chỉ vì hắn ta đã dụ dỗ phu nhân của Thứ sử bỏ trốn thì sao?”
“…”
Người lính đang quỳ dưới đất suýt bật cười, nhưng vừa liếc thấy chiếc áo choàng vân hạc trong khóe mắt, liền lập tức giữ vẻ mặt nghiêm túc.
Mà người dẫn đầu kia vẫn như chưa hề nghe thấy gì.
Dưới chiếc mặt nạ quỷ dữ, hàng mi dài tựa lông quạ cụp xuống, khiến khóe mắt trở nên sắc lạnh và nhọn hoắt.
Người đó cứ đứng im lặng như vậy, dường như tùy ý lau chùi cây đao dài có thể dễ dàng chặt đứt đầu ngựa, dù dung mạo và thần thái bị giấu kín sau lớp mặt nạ, nhưng vẫn toát ra một vẻ uy thế sắc lạnh và áp bức người khác.
Tiếng gió ngừng hẳn, tựa như tình thế ngàn cân treo sợi tóc.
Cho đến khi vết nước cuối cùng bị tấm vải lụa trong tay người đó lau sạch, thì ngón tay trắng lạnh như ngọc mới khẽ búng một cái.
“Keng!”
Lưỡi đao rung động, sắc bén như chém rách dải lụa.
Hàng mi dài như lông quạ ở dưới mặt nạ quỷ dữ cuối cùng cũng nhướng lên, ánh mắt lạnh lùng và giọng nói trong trẻo như dây cung vừa được thả, mũi tên bắn ra —
“Phía Đông Thượng Kinh, tra xét kỹ lưỡng đường quan đạo Ly Sơn một lần nữa.”
–
Con ngựa gầy kéo xe xé tan màn đêm tĩnh mịch, phi nhanh trên đường quan đạo trong núi, để lại hai vệt bóng cây.
Bên trong xe ngựa, trên bàn đặt một chiếc đèn gốm miệng thu hẹp, vành rộng, có vân đen.
Ánh đèn lung linh xuyên qua những khoảng trống có hoa văn lá cây, xua tan bóng tối mờ ảo trong xe.
Bên cạnh đèn gốm, người thiếu nữ chống tay lên trán đang nửa tựa vào bàn, chiếc áo ngắn màu vàng đậm với tay áo cánh sen xộc xệch xếp chồng lên nhau, dưới ánh đèn mờ ảo lộ ra làn da trắng hơn tuyết.
Bên trong áo ngắn là chiếc váy dài xếp ly màu củ sen, toàn thân nàng mặc đồ cực kỳ giản dị, chỉ có ở tay áo và đuôi váy thêu điểm xuyết vết hoa mai rơi, trông vô cùng thanh nhã và mộc mạc.
Nhưng trái ngược hẳn với bộ quần áo giản dị này, mái tóc đen chỉ được búi bằng trâm gỗ rủ xuống, sau khi tháo chiếc khăn lụa mỏng màu tuyết che mặt, dung nhan ấy lại kiều diễm và lộng lẫy vô cùng, với tư thái tiên nữ và cốt cách ngọc ngà.
Chỉ là lúc này, từ vết nhăn khẽ cau lại giữa hai hàng lông mày của nàng, có thể nhận ra vài phần bất lực.
Mà người có thể khiến Thích Bạch Thương như vậy, chỉ có thể là tiểu nha hoàn cứ nhắc đến Tạ Thanh Yến là nói không ngừng trong xe —
“Mấy tin tức vặt vãnh mà nô tì mua được còn nói rằng, tên tự Diễm Chi của Tạ Thanh Yến có nghĩa là ngọc quý, hình như là do Trưởng Công chúa ban cho. Lại vì khi còn nhỏ ngài ấy từng sống một thời gian dài ở Xuân Sơn, nên có hiệu là Xuân Sơn Công tử. Thượng Kinh còn có câu tục ngữ ‘Một khi Xuân về, khắp kinh thành áo đỏ vẫy gọi’, có thể thấy trong lòng các quý nữ ở Thượng Kinh ngài ấy là người thanh băng ngọc khiết, tâm hồn cao thượng, quân tử vô song…”
Không biết nghe đến câu nào, cơn buồn ngủ lại đến đặc biệt mãnh liệt, bàn tay trắng nõn của Thích Bạch Thương với tay áo rộng màu vàng đậm được vén lên, nàng lười biếng ngáp một cái rồi dùng tay che miệng lại:
“Ha…”
Chưa kịp dằn xuống, Thích Bạch Thương đã đối diện với ánh mắt nghi ngờ của Liên Kiều – người đột nhiên cũng im bặt lại.
“Cô nương, có phải người không nghe nô tì nói không?”
“Hả?”
Thích Bạch Thương chớp chớp hàng mi cong.
Có lẽ vì động tác chậm chạp, nên tay áo trượt xuống khỏi bàn tay đang che miệng, lộ ra một nốt ruồi nhỏ màu đỏ son ở gốc ngón tay trái, gần kẽ ngón cái.
Giống như một đóa hồng mai trên ngàn lớp tuyết, vô cùng sống động và quyến rũ.
“Có nghe… chứ.”
Thích Bạch Thương buông tay xuống và thu tay áo cánh sen lại, cặp mày đôi mắt lại lười biếng rũ xuống gần như nhắm hẳn lại, nàng lầm bầm một cách chậm rãi và vô cảm.
“Ngươi nói đại Nho khen ngài ấy là “nội thánh ngoại vương”, ngoài triều đình đồn rằng tài văn chương của ngài ấy có thể trị quốc, võ có thể an bang, triều đình khen ngài ấy có quân công chồng chất, lòng người thiên hạ quy phục, ngay cả sử gia khắt khe nhất cũng nói… Tạ Hầu gia tội tại đương thời, công truyền ngàn thu…”
(Đại Nho: người học vấn uyên bác.)
(Nội thánh ngoại vương: có phẩm chất cao quý bên trong và tài trị nước bên ngoài.)
Âm cuối càng lúc càng nhỏ, càng lúc càng nhẹ, nghe như sắp ngủ thiếp đi vậy.
“Ở biên giới phía Bắc còn có đồng dao về ngài ấy nữa cơ.” Liên Kiều càng nói càng hứng thú: “Yên an chiếu bạch mã. Bước chân nhẹ như sao băng. Mối hận trăm năm một trận kết thúc. Từ nay vùng núi phía Bắc không còn danh xưng hoàng đế.”
“…”
“Nghe đến câu cuối cùng, mí mắt của Thích Bạch Thương vốn đã gần như nhắm lại, bỗng nhiên khựng lại ngay lập tức.
“Từ nay vùng núi phía Bắc không còn danh xưng hoàng đế?”
Liên Kiều không hề nhận ra, vẫn cười quay đầu lại: “Đúng vậy. Dám để Hoàng đế Tây Ninh phong đất tự lập, giờ đây mười ba châu biên giới đã được khôi phục, Tây Ninh cúi đầu xưng thần, đương nhiên là không còn danh hiệu vua chúa nữa.”
Thích Bạch Thương chống tay ngưng lại một chút, như vô tình hỏi: “Những điều này đều là ngươi dò la được từ kinh thành sao?”
Liên Kiều gật đầu: “Đúng vậy.”
“Ai ở kinh thành cũng biết à?”
“Đúng vậy.”
Thích Bạch Thương: “…”
Vị Xuân Sơn Công tử này quả thực rất dễ gây hận thù.
Nàng xoay nửa vòng chiếc quạt lông công điêu khắc từ xương với hoa văn hoa cỏ, khép lại trong lòng bàn tay, Thích Bạch Thương khép mắt lại rồi khẽ thở dài: “Mẫu thân phù hộ, mong Uyên Nhi đừng dính líu gì đến người này mới được.”
“Sao cô nương lại nói vậy?” Liên Kiều vô cùng khó hiểu: “Đây là lang quân trong mộng mà các quý nữ ở Kinh thành yêu thích nhất, là mối nhân duyên tốt đẹp đầu tiên dưới gầm trời này đó!”
“Tốt chỗ nào?” Thích Bạch Thương tiện tay đặt quạt xương xuống.
“Đương nhiên là chỗ nào cũng tốt, người đó là tốt nhất mà.” Liên Kiều nói: “Đợi đến khi vào Kinh thành, chọn một ngày gặp mặt trong phủ thì cô nương sẽ rõ. Vị muội phu tương lai của người tuyệt đối là người được thế nhân công nhận là thanh quý nho nhã, có tấm lòng thánh nhân!”
“…”
Thích Bạch Thương lại cụp mắt mỉm cười khi nghe thấy điều đó.
Trên gương mặt trắng ngần như tuyết với vẻ lười biếng và hờ hững ấy, lập tức tăng thêm ba phần duyên dáng và quyến rũ, như hoa phù dung mùa xuân, khiến ngay cả Liên Kiều người đã nhìn quen cũng phải ngẩn người một chút.
“Tạ Thanh Yến, tấm lòng thánh nhân?” Thích Bạch Thương mỉm cười với vẻ khó tin hiện rõ trên khuôn mặt.
Thấy nàng không tin, Liên Kiều nghiêm túc gật đầu: “Cô nương vì lâu rồi không ở kinh thành nên mới không biết thôi, tính cách của Xuân Sơn Công tử ở kinh thành được người người ca ngợi đấy.
“Kể cả nếu không tính ba mươi vạn quân Trấn Bắc dưới trướng của ngài ấy…”
Thích Bạch Thương chậm rãi tựa lại vào bàn, giọng nói nhẹ như khói: “Nghe nói đội kỵ binh trong phủ Định Bắc Hầu có một cái biệt danh gì đó, đúng không?”
“…”
Sắc mặt Liên Kiều cứng đờ.
Trong phủ Định Bắc Hầu có một đội quân nổi danh triều chính, uy hiếp cả biên giới phía Bắc, tên là Huyền Khải Quân.
Và ở ngoài biên giới phía Bắc của Đại Dận, bọn họ còn có một biệt danh mà người dân Tây Ninh – Bắc Yên mỗi khi nghe thấy đều biến sắc.
Gọi là…
Nhưng không đợi Liên Kiều có cơ hội giải thích, phía trước xe ngựa đột nhiên truyền đến tiếng đá lăn lộn xộn.
Ngay sau đó, bên ngoài xe vang lên tiếng ngựa gầy hí vang.
Chiếc xe đột ngột lắc mạnh.
“Ui –”
Tử Tô ghì chặt dây cương ngựa, Liên Kiều trong xe lập tức dùng thân mình che chắn cho Thích Bạch Thương: “Cô nương cẩn thận!”
May mắn là sau cú chao đảo thì xe ngựa cuối cùng cũng dừng ổn định lại.
Trong ánh mắt còn chưa hết bàng hoàng của Liên Kiều, Thích Bạch Thương ngồi thẳng dậy: “Tử Tô, là đá rơi sao?”
“Không hẳn vậy.”
Dừng lại hai hơi thở, Tử Tô bình tĩnh nói: “Có người từ vách núi bên đường lăn xuống, chặn đường đi rồi ạ.”
Liên Kiều há hốc mồm: “Rơi, rơi chết rồi sao?”
“Sống chết chưa rõ.”
“…”
Tuy tính cách của Tử Tô lạnh lùng tàn nhẫn, nhưng làm việc lại nhanh nhẹn dứt khoát. Trong lúc Liên Kiều vẫn còn run rẩy trong xe lầm bầm ‘đêm hôm thế này đừng là ma quỷ trong núi gây chuyện chứ’, thì Tử Tô đã tiến lên kiểm tra người bị thương chặn đường kia rồi.
“Là một thiếu niên, trông khoảng mười sáu mười bảy tuổi, mặc áo cộc bằng vải thô, có lẽ là thợ săn vào núi đốn củi.” Tử Tô dừng lại bên xe rồi cau mày nói: “Bị ngã khá nặng, toàn thân đẫm máu, e rằng mất nửa cái mạng rồi.”
Thích Bạch Thương cầm lấy chiếc đèn gốm rồi vén rèm lên: “Đưa hắn ta vào đây.”
Liên Kiều nghe vậy vội vàng ngăn lại: “Cô nương, trời đã tối rồi, nam nữ thụ thụ bất thân, hay là…”
Thích Bạch Thương lại xê dịch cái bàn ra, nàng vén tấm che bên dưới bàn rồi lấy ra túi thuốc hành y ở bên trong.
Trên mặt nàng đã không còn vẻ lười biếng như thường ngày nữa.
“Lúc sư phụ nhận ta vào môn đã từng nói, trước khi là một nữ nhi thì ta là một thầy thuốc.”
“…”
Vốn dĩ Liên Kiều cũng không hy vọng có thể ngăn cản được, chỉ đành thở dài rồi cam chịu đi xuống cùng Tử Tô khiêng người lên.
Sau một nén hương.
Bên trong xe ngựa đang đi dọc theo đường quan đạo, Thích Bạch Thương rút cây kim bạc mảnh như lông trâu ra khỏi huyệt phong trì của người thiếu niên bị thương, rồi từ từ đứng thẳng dậy và thở dài một hơi.
Liên Kiều mở to mắt kinh hãi: “Không cứu được nữa sao?”
“Cứu được rồi.”
“Vậy thì tốt quá, nô tì còn tưởng hắn ta sắp chết trên xe ngựa của chúng ta rồi chứ.” Liên Kiều thở phào nhẹ nhõm, rồi lại không hiểu: “Nếu cứu được, tại sao cô nương lại thở dài?”
Thích Bạch Thương nhìn xuống phía dưới, mi mắt của người bị thương nặng khẽ rung động: “Ta chỉ đang nghĩ, liệu bây giờ quay đầu lại, vứt hắn về chỗ vừa đi qua thì có còn kịp không.”
Liên Kiều: “… Á?”
Thích Bạch Thương hơ cây kim trên ngọn nến rồi cất lại vào túi: “Người này bị thương nặng không phải do té ngã, mà trên người hầu hết là vết thương do đao kiếm gây ra, nhìn sơ qua thì không dưới mười vết.”
Liên Kiều đứng sững: “Tử Tử Tử Tô, mau mau mau, quay đầu xe vứt người về –”
Đương nhiên là không kịp rồi.
Lúc này, xe ngựa đã cách chỗ vừa rồi đến vài trăm dặm.
Và ẩn mình trong màn đêm, tiếng vó ngựa truy đuổi từ phía sau dần trở nên rõ ràng.
Trông thấy xe ngựa sắp sửa đi vào đường vòng trong rừng rậm.
Dưới ánh trăng, gió bỗng thổi mạnh khiến bóng cây lay động —
Tiếng ngựa hãi hùng hí vang ở phía trước, sát khí chiến đấu ở phía sau.
Lưỡi đao trắng tập kích tới, Tử Tô nghiêng eo né sang một bên để tránh thoát, nhát đao không thu lại kia chém mạnh vào thanh gỗ càng xe.
Mảnh gỗ bay tung tóe, làm con ngựa kéo xe hí lên kinh hãi.
Một luồng ánh sáng của lưỡi đao khác đuổi sát phía sau, trong lúc vội vàng, Tử Tô đành phải giơ tay dùng dao găm ngắn giấu trong tay áo chống đỡ, sau đó giật mạnh dây cương, xe ngựa lại bị buộc phải ghì cương dừng lại.
Ngoài rèm vải, Tử Tô nhỏ nhỏ một câu: “Bảo vệ tốt cô nương” rồi vung đao bước xuống.
Tiếng binh khí sắt thép va chạm lập tức vang vọng suốt đêm dài, làm chim chóc trong rừng kinh hãi bay đi.
“Mau giết chết ả ta!”
Giọng nói hung ác của kẻ truy sát vọng vào.
Xem thế trận, rõ ràng là không hỏi không tra, xông lên là muốn diệt khẩu.
Sắc mặt của Liên Kiều tái nhợt, cắn răng lấy can đảm nhìn ra ngoài: “Cô nương, bên ngoài có hai người cưỡi chung một con ngựa tới. E rằng là người luyện võ, Tử Tô một chọi hai không thể cầm cự được lâu.”
Thích Bạch Thương khẽ cau mày, trong đầu nhanh chóng suy nghĩ biện pháp.
Lúc này trời đã tối hẳn, lại là vùng núi sâu, tuy ở trên đường quan đạo, nhưng muốn đợi người qua đường đến gần để cầu cứu, thì e rằng ba người bọn họ đã sớm gặp Diêm Vương rồi.
Kế này không ổn.
Xét theo đặc điểm cơ thể, người bị thương không phải là gia đình giàu có, kẻ truy sát ra đao thấu xương, không chết không thôi, tuyệt đối không phải vì tài sản mà càng giống là muốn mạng. Dù có giao người ra hoặc bỏ mặc, thì bọn chúng cũng sẽ không tha cho người sống.
Kế này cũng không được.
“Thiên thời, địa lợi, nhân hòa đều không chiếm được thứ nào, quả là vô cùng xui xẻo.”
Chỉ trong chốc lát, Thích Bạch Thương đã lướt qua mọi chuyện trong đầu rồi lại thở dài một tiếng.
Vậy thì chỉ còn cách cuối cùng thôi.
Liên Kiều buông rèm cuốn xuống, quay đầu lại thấy cô nương nhà mình vẫn ngồi vững vàng mà không hề nhúc nhích, nàng ta không khỏi lo lắng nói lớn: “Tử Tô không chống lại được hai người đâu, nô tì sẽ đi dẫn dụ người còn lại, cô nương mau kéo xe bỏ trốn đi!”
“…”
Thích Bạch Thương kéo Liên Kiều lại: “Bọn chúng có ngựa, còn ta không biết lái xe. Nếu lỡ lật xuống vách núi bị tan xương nát thịt, chi bằng để chúng kết liễu bằng một nhát đao còn hơn.”
Từng lời nói tuy nhẹ nhàng nhưng rất chắc chắn.
Liên Kiều thì suýt khóc vì quá gấp: “Cô nương, đã là lúc nào rồi mà người còn có tâm trạng nói mát về mình vậy!”
Lời chưa dứt, một lọ nhỏ bằng ngọc đã được nhét vào tay Liên Kiều.
Nàng ta cúi đầu nhìn rồi ngây người một lát: “Cô nương?”
“Ta đã dạy ngươi rồi, phải dùng ở nơi trống trải và quang đãng.” Thích Bạch Thương cau mày rồi chậm rãi nói: “Nhớ nín thở, tốt nhất là…”
“Nô tì hiểu rồi, cô nương hãy bảo trọng!” Liên Kiều lập tức cắt lời, nàng ta siết chặt lọ ngọc rồi nhanh chóng chui ra khỏi xe ngựa.
Thích Bạch Thương không nhìn Liên Kiều với vẻ như ra trận đó nữa, ngay lập tức nàng cũng nắm một vật trong lòng bàn tay trái, vịn vào đồ trang trí bên trong xe rồi thong thả đứng dậy.
Trước khi cúi người bước ra khỏi xe, Thích Bạch Thương đeo mạng che mặt lên, quay đầu lại, nhìn thêm lần nữa người thiếu niên trên sàn xe.
“… Ta đã làm hết sức mình rồi, ngươi tự cầu phúc đi.”
Rèm xe rủ xuống sau lưng nàng.
Thích Bạch Thương vịn vào cạnh ngoài của xe ngựa, từ từ đứng thẳng dậy rồi nhìn xuống dưới xe.
Đêm nay trăng sáng nhưng sao mờ nhạt, mặt đất trắng xoá như nước.
Tử Tô đang quyết chiến với một người ở cách đó vài trượng về phía Đông.
Liên Kiều một mình chạy đến khoảng đất trống phía trước xe ngựa, nơi cửa vào rừng rậm. Lúc này nàng ta đang chống hông, run rẩy hét to vào người đang liếc mắt về phía nàng ta trong số hai kẻ kia: “Ngươi… ngươi mau đuổi theo ta đi!”
Trước khi Thích Bạch Thương bước ra khỏi xe ngựa, người còn lại vừa mới thoát thân quả thực đã đuổi theo Liên Kiều đúng như ý nàng —
Cho đến giây phút này.
“Trước giết chủ, sau giết tớ!” Kẻ đang giao đấu với Tử Tô liếc mắt nhìn rõ trang phục của Thích Bạch Thương, liền ra lệnh ngay lập tức.
Người đang đuổi theo Liên Kiều không chút do dự, lập tức quay người, ánh đao vung lên mang theo sát khí lạnh lẽo, uốn cong một vệt sáng lạnh dưới ánh trăng.
Sát khí ngay lập tức áp sát xe ngựa, xem ra không thể tránh né được nữa rồi.
“Cô nương!!!”
Liên Kiều nhìn sang, sợ đến mức mắt trợn trừng như muốn nứt ra, trong khoảnh khắc liền cứng họng không thốt nên lời.
Tuy nhiên, người phụ nữ với chiếc váy dài màu hồng cánh sen trên trục càng xe lại dường như sợ đến ngây người, cúi đầu đứng yên không hề nhúc nhích.
Thấy lưỡi đao trắng chém đến gần.
Bàn tay trái giấu sau lưng của Thích Bạch Thương mở nắp lọ ngọc, rồi nhấn giữ lại.
“Ba.”
Phạm vi phát tán của thuốc chỉ trong vòng một trượng, phải ra tay trúng đích một lần, không thể sớm hơn hay muộn hơn một chút.
“Hai.”
Thích Bạch Thương hít sâu một hơi, khí lạnh của màn đêm thấm sâu vào phổi.
“Một…”
Chính là lúc này.
Thích Bạch Thương đột ngột ngẩng đầu.
Tấm mạng che mặt mỏng phía trước bị sát khí của lưỡi đao chém ngang mạnh mẽ thổi bay, trượt khỏi má nàng rồi rơi sang một bên.
Vẻ trong trẻo kiều diễm dưới ánh trăng, vượt trội hơn cả những mỹ nữ trong kinh thành.
Trong tay kẻ tấn công, lưỡi đao trắng đang chém xuống cần cổ thon gầy của người phụ nữ vô thức giảm đi ba phần lực.
Tuy nhiên, Thích Bạch Thương không hề có chút chậm trễ nào.
Bàn tay trái giấu sau lưng nàng giơ lên, dưới lớp tay áo cánh sen rộng chuẩn bị mở chiếc lọ ngọc gây chết người kia.
“Keng ——!!”
Đột nhiên có tiếng cung mạnh mẽ rung lên.
Trong khoảnh khắc ấy, tiếng xé gió xé nát bầu trời đêm đen thăm thẳm.
Một mũi tên lao đến giữa không trung.
“Xíu——”
“Keng coong!”
Trước mắt Thích Bạch Thương, luồng sáng đao trắng như tuyết bị mũi tên bắn rớt. Mũi tên lạnh lẽo sượt qua cổ nàng, cắm thẳng vào cạnh xe ngựa phía sau nàng.
“Ong…”
Lông tên của mũi tên dài dừng lại bên tai Thích Bạch Thương, rung lên bần bật.
Một hoặc hai nhịp thở sau, bên tóc mai của nàng, vài lọn tóc xanh được búi rủ xuống, dài như thác đổ.
Mái tóc màu đen, da trắng như tuyết, đôi môi đỏ mọng, cặp mắt đen.
Vẻ đẹp kiều diễm càng thêm duyên dáng thanh thoát, dưới ánh trăng gần như yêu mị.
Dù là những giáp sĩ lao lên từ hai bên đường, và chỉ trong khoảnh khắc đã bắt giữ hai kẻ truy sát kia, lúc này cũng không kìm được mà nhìn về phía nàng.
Vẻ đẹp đáng lẽ phải thất sắc vì sợ hãi, giờ lại càng thêm tuyệt mỹ.
Tuy nhiên, trên khuôn mặt người đẹp không hề tìm thấy chút sợ hãi nào.
Ngược lại, Thích Bạch Thương đứng giữa vòng vây của đám người đeo mặt nạ dữ tợn, từ từ ngước mắt lên, nàng nhìn thẳng vào rừng rậm phía trước con đường quan đạo.
Trong rừng có một bóng hình thanh thoát, khó nhận ra dung mạo thật. Như một ngọn núi ngọc đứng sừng sững, áo choàng dài bay phấp phới, không giống người phàm trần.
Lúc này mọi người đều dừng mắt nhìn, chỉ riêng người đó lạnh lùng cúi đầu, ánh mắt rũ xuống, những khớp ngón tay thon dài đang căng dây cung và đeo giáp từ từ buông lỏng, thong thả thu lại cây cung dài.
“Cô cô cô nương…”
Vòng qua đám Giáp sĩ giáp trụ lạnh lẽo, Liên Kiều gần như lăn lê bò toài chạy đến bên cạnh trục xe, vừa khóc vừa la: “Cô nương không sao chứ? Có bị thương không? Họ là ai vậy??”
“…”
Lúc này Thích Bạch Thương mới hồi thần lại, từ từ thở ra hơi lạnh vừa hít vào phổi lúc nãy.
Nương theo ánh trăng, nàng quét mắt nhìn xung quanh.
Ngựa bờm dài, áo giáp Huyền Minh, đao uống máu, mặt nạ ác quỷ.
Trong triều đại Đại Dận, chỉ có duy nhất một đội kỵ binh tinh nhuệ vô song mới có thể sử dụng kiểu chế tạo này.
Thân binh của phủ Định Bắc Hầu, Huyền Khải Quân.
Ở biên giới phía Bắc, bọn họ còn được gọi là —
“Diêm Vương đòi mạng.”