Chương 66
Ba Nhật Tư đi chậm lại, cuối cùng dừng lại ở nơi cách cỗ xe mấy trượng.
Trông thấy dáng vẻ nghi hoặc của hắn ta, người đứng đầu còn lại của sứ đoàn bèn cất tiếng hỏi.
“Ba Nhật Tư, phát hiện ra điều gì sao?”
“Chắc là nhìn nhầm thôi.”
“Hửm?”
Hai người trao đổi bằng tiếng Bắc Yên, cung nhân dẫn đường nghe không hiểu nên hoang mang quay người lại.
Ba Nhật Tư thôi không nhìn nữa: “Đi thôi Hồ Phất Tắc, để lỡ giờ lành, hoàng đế Đại Dận trách tội thì chúng ta gánh không nổi đâu.”
“Khoan đã.”
Lần này lại đến lượt Hồ Phất Tắc giữ lấy Ba Nhật Tư, y không nhìn vào xe ngựa mà lại hướng mắt về phía quân sĩ Huyền Khải đang đứng gác ở bên cạnh.
Hồ Phất Tắc nắm lấy tay Ba Nhật Tư rồi kéo hắn ta về phía xe ngựa: “Đã có diễm phúc được gặp chủ thượng của quân Huyền Khải, sao chúng ta có thể không đến bái kiến chứ?”
“Cái gì?” Ba Nhật Tư vốn định rời đi, nghe vậy thì mặc người kia kéo mình về phía xe ngựa, “Ngươi nói đây là xe của Tạ Thanh Yến à?”
“Ba Nhật Tư, nếu ngươi không nhận ra thì sao ban nãy lại đi qua đây?” Hồ Phất Tắc cười hỏi, trong ánh mắt lại lóe lên tia sáng ranh mãnh.
Ba Nhật Tư giật mạnh tay, dễ dàng thoát khỏi người nọ: “Chuyện của ta chưa đến lượt ngươi xen vào.”
Hồ Phất Tắc hơi khựng lại, sau đó vội vàng cúi người xuống: “Ta thất lễ rồi, tiểu Khả Hãn.”
“…”
Hai người vừa nói chuyện vừa đến gần cỗ xe nọ.
Quân sĩ Huyền Khải bước lên, lạnh lùng vắt ngang trường đao trong tay: “Dừng lại. Phía trước cấm đi.”
Hồ Phất Tắc tươi cười đáp lời: “Chúng ta là sứ thần Bắc Yên, vị này là tiểu Khả Hãn. Nghe danh Tạ soái đã lâu, hôm nay may mắn được gặp nên muốn đến bái kiến.”
Ba Nhật Tư nhíu mày nhìn y.
Tuy Hồ Phất Tắc sinh ra ở Bắc Yên nhưng lại mang một nửa dòng máu Trung Nguyên, ngoài việc dung mạo mang nét thô ráp hơn thì mái tóc và đôi mắt đen tuyền kia trông chẳng khác gì người bản xứ.
Giờ đây nghe y cất giọng Quan Thoại Đại Dận trôi chảy, tự nhiên đến vậy, nếu không nhờ bộ y phục người Hồ trên mình, e rằng dù có lẫn vào giữa dân chúng Đại Dận, nếu không nhìn kỹ… có lẽ cũng khó mà nhận ra được.
Quân sĩ nọ vẫn nghiêm nghị siết chặt trường đao trong tay: “Ai nói với ngươi chủ thượng có ở trong xe?”
Thấy đối phương dường như đã sinh sát ý, vết sẹo dưới khóe mắt Hồ Phất Tắc khẽ giật vài lượt, thế nhưng y vẫn điềm nhiên mỉm cười: “Tuy ta không thạo lễ nghi Đại Dận, song cũng biết cỗ xe mang hoa văn và nghi chế này… trong thiên hạ Đại Dận, kẻ được phép an tọa nhiều lắm cũng chỉ đếm trên năm ngón tay mà thôi.”
“Xin chờ ở đây.”
Lúc này sát ý của quân sĩ mới bớt đi một chút, người nọ quay người đến bên ngoài xe rồi thấp giọng bẩm báo.
Chẳng mấy chốc, ngoài cỗ xe vang lên tiếng chuông vàng ngân nhẹ như gợn sóng trong không khí tĩnh mịch. Rèm trước khẽ lay, từng nếp vải chậm rãi được vén lên. Từ bên trong, một bóng người lặng lẽ đặt bước xuống như bước ra từ bức họa cổ.
Nụ cười trên môi Hồ Phất Tắc dần lắng xuống, y nheo mắt lại, ánh nhìn sắc bén như lưỡi kiếm lặng lẽ quét qua.
Người bước ra khỏi xe có dáng người thanh mảnh, phong thái hiên ngang mà thanh nhã như trăng sáng gió lành. Gương mặt sắc sảo cùng sống mũi thẳng tắp như đỉnh núi ở nơi xa, khóe môi vương ý cười nhàn nhạt, chỉ thoáng nhìn thôi cũng khiến lòng người sinh cảm mến.
Dáng vẻ này… nếu nói là văn nhân nhã sĩ uống rượu ngâm thơ, hoặc là bậc công tử thanh quý sống giữa chốn phồn hoa Kinh thành thì Hồ Phất Tắc sẽ tin. Nhưng là chủ soái của quân Trấn Bắc…
Thấy người kia vừa khoác áo lông chồn, vừa thong thả bước xuống chiếc ghế nhỏ đã chuẩn bị sẵn bên xe, cuối cùng Hồ Phất Tắc cũng không cười được nữa.
Y nghiêng đầu về phía Ba Nhật Tư rồi thấp giọng nói vài câu bằng tiếng Bắc Yên: “Hắn là Tạ Thanh Yến sao? Một công tử bột xuống ngựa còn cần ghế, thấy gió còn phải khoác thêm áo như hắn thì làm sao trấn thủ được biên cương lạnh giá ở phía Bắc? Không phải hắn là thế thân được chủ soái của quân Trấn Bắc nuôi dưỡng đấy chứ?”
Ba Nhật Tư vẫn nhìn thẳng về phía trước: “Ta từng thấy người này cưỡi ngựa rồi, không kém cạnh đám binh sĩ cưỡi ngựa giỏi nhất trên thảo nguyên đâu.”
“Ồ?” Ánh mắt của Hồ Phất Tắc bỗng lạnh đi, thậm chí còn mang theo cả sát ý.
“Hồ Phất Tắc,” Ba Nhật Tư lập tức quay sang dặn dò, “Chúng ta đến Kinh thành để hòa đàm, ngươi không được làm càn.”
“… Vâng.” Thấy Tạ Thanh Yến lại gần, Hồ Phất Tắc chuyển sang nói tiếng Quan Thoại của Đại Dận, cười tươi chắp tay: “Mọi chuyện đều nghe theo tiểu Khả Hãn.”
Đúng lúc đó, Tạ Thanh Yến cũng dừng lại trước mặt hai người họ. Hắn ngạc nhiên nhìn Ba Nhật Tư: “Thì ra các hạ là tiểu Khả Hãn của Bắc Yên? Hôm đó gặp nhau ở sân mã cầu, Tạ mỗ thất lễ rồi.”
“Ồ?” Hồ Phất Tắc ngơ ngác, “Tạ soái từng gặp tiểu Khả Hãn của chúng ta sao?”
“Chỉ tình cờ thôi.”
Tạ Thanh Yến nhìn Ba Nhật Tư rồi lại quay sang Hồ Phất Tắc, “Các hạ là…?”
Hồ Phất Tắc lập tức đặt tay lên ngực hành lễ: “Ta chỉ là một tùy tùng của tiểu Khả Hãn mà thôi, không đáng nhắc tới.”
“Các hạ nói tiếng Quan Thoại rất tốt.” Tạ Thanh Yến tùy ý đáp lời, “Chỉ là Đại Dận ta còn có một câu, gọi là ‘quý nhân hay quên’.”
Ánh sáng trong mắt Hồ Phất Tắc lại khẽ vụt qua: “Có ý gì?”
“Ý là… ta từng thoáng thấy Thượng Tướng quân của Bắc Yên, Hồ Phất Tắc – Nạp Nhĩ Hãn Tư một lần. Trận chiến ở hồ Đề Long năm ấy, tướng quân oai phong lẫm liệt, hai quân giáp mặt, thiết kỵ giao tranh, binh đao sáng loáng… Có lẽ tướng quân đã quên mất rồi.”
Hồ Phất Tắc bỗng sa sầm mặt mày, ý cười gượng gạo trên môi cũng chẳng còn nữa.
Suốt nửa đời ngang dọc sa trường, y thắng như chẻ tre, bại chẳng mấy lần, mà những trận cùng thân tín kỵ binh chịu cảnh thua tan tác lại càng hiếm đến mức có thể đếm trên đầu ngón tay. Trận Đề Long năm năm trước… chính là vết nhơ mà y luôn khắc sâu đến tận đáy lòng.
Thiết Kỵ của Hồ Phất Tắc vốn nổi danh khắp phương Bắc với tài lấy thiểu số chế đa số, nào ngờ lần đầu tiên chiếm ưu thế về kỵ binh lại chịu thảm bại cay đắng. Nhát đao dài của vị tướng quân thiếu niên năm đó lướt qua, vết sẹo ấy đến nay vẫn còn hằn nơi khóe mắt y.
Khi ấy, đội quân Huyền Khải lừng danh khắp Đại Dận và Bắc Yên vẫn còn sơ khai, vậy mà đã để lại cho y một vết nhục nhã khó phai.
“Thì ra vị tướng quân thiếu niên năm ấy chính là Tạ soái. Bao năm nay ta tìm ngươi vất vả lắm đấy.” Hồ Phất Tắc nghiến răng thốt ra từng chữ, nhưng trên môi y vẫn nở nụ cười thật tươi, vết sẹo nơi khóe mắt dần đỏ ửng như chực nứt ra.
Tạ Thanh Yến lại làm như chẳng hề hay biết, còn ôn tồn gật đầu: “Chính là tại hạ.”
“Đáng tiếc, nếu biết Tạ tướng quân có ngày diệt Tây Ninh, uy hiếp Bắc Yên, thì năm đó dù có liều cả mạng này, Hồ Phất Tắc ta cũng phải khiến tướng quân bỏ mạng ở hồ Đề Long.”
Từng lời nói tựa như mũi gươm, đầy rẫy sát khí.
Tạ Thanh Yến không hề chớp mắt, hắn nhìn Hồ Phất Tắc rồi ôn tồn mỉm cười: “Ngươi không làm được đâu.”
“…!”
Gân cổ Hồ Phất Tắc giật mạnh, đôi mắt tròn xoe trợn trừng như mãnh hổ. Y tiến tới một bước: “Tạ tướng quân chỉ một mình ở đây, không ai bảo vệ, ngay cả binh khí cũng chẳng có trong tay, ngài không sợ ta nổi giận, máu vương năm bước hay sao?”
“Hồ Phất Tắc.” Ba Nhật Tư khẽ quát, nhưng chưa kịp nói thêm điều gì thì vành tai của hắn ta khẽ động, ánh mắt ngập ngừng liếc nhìn cỗ xe ngựa mà Tạ Thanh Yến vừa bước xuống.
Vừa nghe câu nói của Hồ Phất Tắc, sắc mặt đám quân sĩ Huyền Khải phía sau Tạ Thanh Yến đã lập tức trầm xuống. Trường đao trong tay dựng thẳng như vách, cán đao nặng trịch nện xuống đất vang lên tiếng trầm đục như lời cảnh cáo thầm lặng.
Đá xanh lập tức nứt ra một vết dài.
“Không được vô lễ.”
Tạ Thanh Yến liếc mắt, quở trách quân sĩ phía sau rồi bình thản quay lại nhìn Hồ Phất Tắc.
“Kẻ bại trận, lấy đâu tư cách nói lời anh dũng?”
“…!!”
Cả người Hồ Phất Tắc căng cứng như mũi tên đã lên dây. Còn Ba Nhật Tư thì biến sắc, chẳng muốn dò xét bên trong xe ngựa thêm nữa.
Hắn ta vội vàng kéo Hồ Phất Tắc lùi lại hai bước.
“Hồ Phất Tắc!” Ba Nhật Tư trầm giọng cảnh cáo.
Hồ Phất Tắc bỗng giật mình như kẻ vừa tỉnh khỏi mộng, y vội ngước nhìn xung quanh, và rồi y nhận ra ngay ánh sáng chói lòa phản chiếu từ trên nóc tường cung điện không xa.
Đó chính là mũi tên của các cung thủ đã mai phục sẵn.
Nếu vừa rồi y thật sự ra tay, e rằng người máu vương năm bước tuyệt đối không phải là Tạ Thanh Yến… mà chính là y mới đúng.
Hồ Phất Tắc toát mồ hôi lạnh, vẻ mặt càng trở nên u uất khi nhìn vị công tử trẻ tuổi ôn hòa trước mắt.
Vốn dĩ y chỉ giả vờ giận dữ, cố tình khiêu khích Tạ Thanh Yến để thăm dò, ai ngờ giả giận mà lại thành thật, lại còn đã rơi vào bẫy của người nọ.
Cơn phẫn nộ tức khắc dâng trào trong lòng Hồ Phất Tắc, ánh mắt y trầm xuống, nhưng cuối cùng y lại bật ra tiếng cười đầy sảng khoái: “Hay, hay lắm, anh hùng xuất thiếu niên, tiếc là không phải người Bắc Yên ta!”
Nói rồi, Hồ Phất Tắc quay người, trở về đoàn sứ thần.
Tạ Thanh Yến nhìn theo bóng lưng của Hồ Phất Tắc một chốc rồi tiếc nuối chuyển ánh nhìn sang Ba Nhật Tư: “Tiểu Khả Hãn không đi là muốn dặn dò điều chi à?”
Ba Nhật Tư nheo đôi mắt xanh biếc lại, hắn ta không giỏi tiếng quan thoại Đại Dận nên dùng thẳng tiếng Bắc Yên: “Hôm nay có phải ngươi cố tình đến đây, tự làm mồi nhử để lấy mạng Hồ Phất Tắc không?”
Tạ Thanh Yến ngạc nhiên: “Đại Dận chúng ta lấy lễ nghĩa làm đầu, cớ sao tiểu Khả Hãn lại nói thế?”
Ba Nhật Tư cau mày: “Ta không thích vòng vo.”
“Thích hay không thích, dùng hay không dùng, vốn dĩ là hai chuyện khác nhau.” Tạ Thanh Yến khẽ thở dài, “Tiểu Khả Hãn một ngày còn chưa dùng đến, một ngày chỉ có thể làm tướng, chẳng thể làm soái được.”
Ba Nhật Tư không thích chủ đề này nên dứt khoát quay đầu nhìn về phía cỗ xe ngựa sau lưng Tạ Thanh Yến: “Trong xe còn có người khác à?”
Vẻ mặt nhàn nhã của Tạ Thanh Yến hơi lạnh đi. Hắn chỉ ngước mắt nhìn mà không đáp.
Ba Nhật Tư nghiêng tai, bất ngờ chuyển sang nói tiếng Quan Thoại của Đại Dận: “Nghe hơi thở… hình như là nữ nhân?”
Tạ Thanh Yến hờ hững trả lời: “Tạ mỗ hoang dâm, chỉ là giấu một mỹ thiếp để tiêu khiển trước yến tiệc mà thôi.”
Trong xe ngựa vang lên một tiếng “cộc” nhẹ. Tựa như tiếng xích vàng nện vào vách xe, mang theo sự oán giận ngút trời với câu nói hắn vừa thốt ra.
Rõ ràng Ba Nhật Tư cũng không ngờ Tạ Thanh Yến có thể dửng dưng tự hạ thấp mình như vậy, hắn ta nghẹn lại một lúc lâu mới cất tiếng: “Bắc Yên đồn rằng Tạ Tướng quân không gần nữ sắc.”
“Biên cương khổ lạnh, khó có mỹ nhân. Nơi Kinh thành phồn hoa, dưới đóa mẫu đơn là chốn tiêu hồn… Sống ở chốn cực lạc, dù chết cũng không tiếc.”
Từng lời từng chữ tuôn ra tựa như nước chảy mây trôi.
Tiếc rằng Ba Nhật Tư gần như không hiểu được một câu nào.
Nhưng chẳng sao cả, những lời này vốn đâu phải nói cho hắn ta nghe.
***
Tạ Thanh Yến nói vài ba lời qua loa tiễn người đi, sau đó hắn quay lại xe ngựa, nào ngờ vừa bước vào thì một chiếc chén vàng bỗng bay thẳng về phía hắn.
Tạ Thanh Yến khẽ nghiêng người.
“Cộp!” Chiếc chén vàng sượt qua áo lông chồn của hắn rồi nện vào vách xe, âm thanh trong trẻo như tiếng chuông đồng sớm mai.
Tạ Thanh Yến nhặt chén vàng lên, tiện tay đặt trên bàn rồi cởi bỏ áo lông chồn ra, để lộ vết cắn đỏ ửng còn vương máu trên phần cổ thon dài.
“Chỉ vậy mà đã giận rồi sao?” Tạ Thanh Yến cúi người, một lần nữa tháo chiếc xích vàng mà hắn đã khóa lại cho Thích Bạch Thương trước khi xuống xe, “Hôm đó ta tận mắt thấy nàng thân mật cùng người khác ở sân mã cầu, mà ta còn chẳng nói gì.”
“Sân mã cầu?”
Thích Bạch Thương chau mày: “Nếu ngươi không vừa lòng chuyện Uyển Nhi và Vân Tam thân cận thì cứ nói thẳng ra là được, cớ gì lại giận cá chém thớt?”
“Hửm?” Ngón tay đang gỡ xích vàng của Tạ Thanh Yến bỗng khựng lại. Hắn chậm rãi ngước mắt lên, ánh nhìn thâm trầm như vực sâu, ẩn một tầng sóng ngầm khó dò.
Thích Bạch Thương rất ghét ánh mắt ấy, cũng bởi nó cứ như lưỡi dao lặng lẽ xé toạc mọi lễ nghi, bóc trần từng lớp phòng bị, rồi như dã thú muốn nuốt trọn nàng vào tận xương tủy. Ánh mắt ấy vừa trần trụi, vừa tràn ngập ý xâm chiếm, khiến không gian quanh nàng như đặc quánh lại.
Nàng bỗng thấy chột dạ nên đành quay mặt đi, sau đó vội chuyển sang chủ đề khác: “Ba Nhật Tư là tiểu Khả Hãn của Bắc Yên à?”
“Không sai.”
“Hình như như ngươi muốn tiếp cận họ?”
“…”
Tạ Thanh Yến vừa đứng thẳng người, ngón tay lại quấn chiếc xích vàng vào mà đùa nghịch. Nghe nàng nói vậy, khóe môi mỏng của hắn khẽ nhếch lên.
Thích Bạch Thương không nhịn được mà tiếp tục truy hỏi: “Tại sao?”
Nàng dừng lại một chốc, giọng nói hạ xuống mức thấp nhất: “Ngươi thật sự muốn mưu phản sao?”
Tạ Thanh Yến bật cười: “Ngai vàng ư? Ta không có hứng thú.”
Thích Bạch Thương sững người.
Giọng của Tạ Thanh Yến quá đỗi thản nhiên, từng chữ thốt ra chắc nịch như đã nắm trọn kết cục trong tay. Chỉ khi đã nắm chắc mọi việc thì người ta mới có thể lạnh lùng và dửng dưng đến thế, cứ như mọi thứ ngoài kia chẳng đáng để hắn ngoảnh mắt nhìn thêm một lần.
Tạ Thanh Yến nới lỏng xích vàng rồi hờ hững nói tiếp: “Dưới ngôi vị Đế vương là núi đao biển lửa, muốn bước lên… phải dần dần gọt bỏ nhân tính. Mà ta, chỉ muốn làm một con người…”
Hắn nửa đùa nửa thật: “Cùng với Yêu Yêu của ta hưởng thụ khoái lạc cực điểm.”
Thích Bạch Thương nghe những lời vô liêm sỉ như vậy nhiều quá nên cũng quen dần.
Nàng khẽ nghiến răng: “Nói xằng nói bậy.”
Tiếng vó ngựa lộc cộc trên nền đá trắng như ngọc cuối cùng cũng từ từ dừng lại.
Tạ Thanh Yến kéo rèm xe cho Thích Bạch Thương, để lộ ra một góc u tĩnh, rợp bóng mát của cung điện uy nghiêm.
Sau khi chỉnh trang lại y phục rồi bước xuống xe, Thích Bạch Thương nhìn thấy nơi chân tường cung điện cách đó không xa, một cung nữ đã đứng chờ từ lâu rồi.
“Nàng ấy sẽ dẫn nàng vào yến tiệc.” Tạ Thanh Yến dừng lại cạnh xe.
Thích Bạch Thương vốn chẳng nỡ rời xa hắn, lúc xoay gót định bước đi, minh châu ở mũi hài khẽ lay động khiến lòng nàng chùn lại, bước chân cũng đành dừng.
Nàng quay lưng về phía hắn: “Sứ đoàn Bắc Yên vào Kinh… thật sự chỉ có hòa đàm, không còn mưu đồ nào khác à?”
Tạ Thanh Yến khẽ cười: “Chỉ dựa vào cuộc đối đầu vừa rồi mà Yêu Yêu đã có cái nhìn nhạy bén như vậy, nuôi dưỡng trong khuê các quả là đáng tiếc, nàng nên vào quân trướng của ta, làm một mưu sĩ mới phải.”
“Ngươi không muốn nói thì thôi,” Thích Bạch Thương cau mày quay mặt sang, “Không cần phải chơi trò mưu mẹo với ta.”
Tạ Thanh Yến thở dài một hơi rồi mỉm cười với nàng: “Bắc Yên khác với Đại Dận, họ lấy bộ lạc làm gốc. Bộ lạc có lớn có nhỏ, quyền vị có cao có thấp. Những bộ lạc đứng đầu đã đồng ý hòa đàm thì các bộ lạc còn lại chỉ đành cúi đầu tuân theo thôi.”
Thích Bạch Thương không nói gì, vẫn im lặng đợi hắn nói xong.
“Nhưng mà…” Vẻ mặt của Tạ Thanh Yến vẫn điềm tĩnh tựa như mặt giếng cổ, giọng điệu ung dung, tự tại vô cùng: “Nếu ta chết thì chẳng cần hòa đàm nữa rồi.”
“…”
Quả nhiên.
Thích Bạch Thương khẽ buông tiếng thở dài. Nàng quay người lại, đối diện với Tạ Thanh Yến rồi hạ thấp giọng: “Hãy nói với ám vệ của ngươi, một khi gặp nguy hiểm, bất kể sống chết, hãy tìm ta trước.”
Thích Bạch Thương xoay cổ tay lại, chẳng biết lấy một chiếc túi gấm cực nhỏ từ đâu ra rồi đưa cho Tạ Thanh Yến.
“Viên thuốc này chưa chắc giải được bách độc, nhưng ít nhất cũng có thể giữ lại tính mạng một thời gian. Nếu tình thế nguy cấp, hãy nhớ uống nó.”
Tạ Thanh Yến dừng lại rất lâu rồi mới vươn tay tới: “Là thuốc nàng tự chế à?”
“Ta không có bản lĩnh đó, thuốc này là do sư phụ của ta tặng. Bàn về y thuật, thiên hạ không ai sánh bằng đâu.”
Thích Bạch Thương thấy hắn đã lấy túi gấm nên định rời đi thật nhanh.
Nào ngờ tay nàng còn chưa kịp buông thì đã bị Tạ Thanh Yến nắm chặt lấy rồi kéo lại gần.
Thích Bạch Thương kinh ngạc ngước mắt: “Ngươi…”
“Ta đối xử với nàng như vậy, vì sao nàng vẫn muốn cứu ta?” Tạ Thanh Yến cúi đầu nhìn nàng.
Thích Bạch Thương chau mày: “Những chuyện khác tạm không nhắc tới, ngươi đã ba lần bảy lượt cứu mạng ta, bất kể vì lý do gì, ta sẽ không lấy oán báo ân.”
“Nhưng ta thì sẽ làm vậy.”
Tạ Thanh Yến cúi xuống thật gần, “Yêu Yêu không nghe câu chuyện về Đông Quách và con sói sao? Nàng tốt bụng cứu sói, nhưng nó sẽ ăn thịt nàng.”
Cung nữ bên kia chờ đã lâu nên nhìn sang hướng bên này, Thích Bạch Thương không giãy ra được nên tức giận giơ chân đá Tạ Thanh Yến một cái: “Con sói vong ân phụ nghĩa đó cuối cùng cũng chết mà!”
“Thật sao?” Tạ Thanh Yến khẽ hỏi, “Ai giết?”
“Đông Quách!”
“Ồ, vậy ta cũng chết đúng chỗ đấy chứ.”
“?”
Tạ Thanh Yến thỏa mãn buông tay ra.
Thích Bạch Thương: “…”
Một ngày nào đó sư phụ về Kinh, nàng nhất định, nhất định phải mời người chẩn trị xem thử có phải đầu óc của Tạ Thanh Yến có vấn đề hay không.
Thích Bạch Thương hung hăng lườm Tạ Thanh Yến một cái rồi quay người bỏ đi.
“Tiểu y nữ.” Tạ Thanh Yến chợt gọi với theo ở phía sau.
Thích Bạch Thương dừng bước, làm mặt lạnh với người nọ.
Dưới bóng râm nghiêng đổ nơi tường cung, nửa khuôn mặt tuấn tú như ngọc của người nọ bị che khuất, chỉ còn lộ ra đôi nét mờ ẩn.
“Từ hôm nay đừng gặp lại Ba Nhật Tư nữa. Bằng không trước khi chết, con sói nhất định sẽ nuốt chửng nàng đấy.”
“…!”
Thích Bạch Thương chỉ muốn xách váy chạy trốn.
***
Cho dù không có lời nhắc nhở của Tạ Thanh Yến thì Thích Bạch Thương cũng đã từ bỏ ý định mượn tay Ba Nhật Tư để tiếp cận thương đoàn người Hồ.
Thân phận tiểu Khả Hãn Bắc Yên chỉ cần động nhẹ đã ảnh hưởng đến toàn cục, mượn tay hắn để hành sự chẳng khác nào mò kim đáy biển, những biến số đó… quả thực không nằm trong tầm kiểm soát của nàng.
Chỉ còn cách tìm lối đi khác thôi!
“… Hầy.”
Thích Bạch Thương ngồi ở cuối hàng ghế dành cho các nữ quyến trong một điện phụ, nàng vừa thở dài vừa gắp một miếng củ cải trắng từ chiếc đĩa trước mặt, nào ngờ còn chưa kịp đưa đũa lên thì đã nghe thấy một trận xôn xao xung quanh.
“Thích cô nương.”
“Hửm?”
Thích Bạch Thương vừa ngước mắt đã trông thấy một nữ quan khoan thai bước đến bàn của nàng, sau đó cúi người hành lễ:
“Bệ hạ ngự chỉ, mời cô nương dời ghế đến chính điện.”
“Cạch.” Miếng củ cải trắng tức khắc rời khỏi đũa, rơi mạnh xuống bàn.
So với vẻ ngạc nhiên và ngưỡng mộ của đám nữ quyến xung quanh, Thích Bạch Thương chỉ cảm thấy sống lưng mình lạnh toát.
Yến tiệc hôm nay có cả sứ đoàn Bắc Yên, những nữ quyến được phép vào chính điện chỉ có các cáo mệnh phu nhân đã xuất giá, còn những người chưa xuất giá cũng phải là Công chúa, Quận chúa hoặc Huyện chúa.
… Sao có thể đến lượt nàng chứ?
“Thích cô nương?” Nữ quan lại thúc giục.
“… Tạ ơn ân điển của Bệ hạ.”
Thích Bạch Thương đành cúi đầu hành lễ rồi đứng dậy đi theo.
Sự thật chứng minh, rõ ràng người kinh ngạc trước chuyện này không chỉ có mỗi mình Thích Bạch Thương.
“Sao ngươi lại ở đây?!”
Tống thị ngồi ở hàng ghế bên cạnh nơi nữ quan dẫn Thích Bạch Thương đến, nhìn thấy nàng, bà ta không kìm được mà cất cao giọng.
Đến lúc hoàn hồn, Tống thị mới vội vàng khom người xuống rồi liếc nhìn ngự tọa. Bệ hạ đang nói chuyện với sứ thần Bắc Yên ở hàng dưới nên không để ý đến chuyện khác.
Lúc này Tống thị mới quay đầu lại: “Thích gia cũng coi như một người đắc đạo, gà chó được thăng thiên theo. Đến cả thứ xuất thân ti tiện như ngươi mà cũng dám vấy bẩn chính điện…”
Nghe giọng điệu hằn học thế này, hẳn là do bà ta bị cấm túc nhiều ngày nên oán hận sinh ra càng lúc càng nhiều đây mà.
Thích Bạch Thương từ tốn đáp lời: “Vị nữ quan kia nói Bệ hạ đích thân chỉ điểm, nếu đại phu nhân muốn trách cứ thì chi bằng đi tìm Bệ hạ đi ạ?”
“Ngươi dám lấy Bệ hạ ra uy hiếp ta?”
Thích Bạch Thương lười tranh cãi với bà ta.
Đúng lúc này, một vị quan mặc áo bào đỏ vội vã bước vào, đến gần ngự tọa rồi cúi đầu lạy.
“Giám Chính Khâm Thiên Giám Thẩm Tận Hạ, khấu kiến Bệ hạ.”
“Có chuyện gì? Để mai hẵng tấu không được sao?” Giọng Tạ Sách vẫn hờ hững như thường lệ, chẳng rõ vui buồn thế nào.
“Bẩm Bệ hạ,” Thẩm Tận Hạ sửa lại mũ quan với vẻ mặt hớn hở, “Đêm nay thần quan sát thiên tượng, đã chọn được ngày đại hôn của Trấn Quốc Công, hợp với Thiên đức, Nguyệt đức… …”
Tạ Sách kiên nhẫn nghe xong rồi liếc mắt nhìn sang hàng ghế bên trái. Nam tử khoác áo lông chồn trắng vẫn ngồi sừng sững ở đó như núi ngọc, nét mặt điềm tĩnh, chẳng may may lay động.
Như thể ngày đại hỉ đó là của người khác, hắn chẳng hề bận tâm.
“Được rồi,” Tạ Sách xua tay, “Nói đi, Khâm Thiên Giám chọn được ngày nào?”
Thẩm Tận Hạ cúi lạy thật sâu: “Chính là mùng chín tháng hai năm sau! Có thể nói là ngày trời chọn, giai ngẫu thiên thành ạ!”
Trong chính điện bắt đầu vang lên những tiếng bàn tán xôn xao.
Tạ Sách suy nghĩ hồi lâu rồi gật đầu: “Quả là ngày tốt, trẫm chuẩn tấu.”
Tạ Thanh Yến cùng Thích Uyển Nhi quỳ thẳng người, chắp tay hành lễ.
“Thần, tạ ơn Bệ hạ.”
“Thần nữ Thích Uyển Nhi tạ ơn Bệ hạ.”
“Miễn lễ, bình thân.” Tạ Sách xua tay.
Cặp trai tài gái sắc vừa đứng dậy, đám người xung quanh lập tức chúc tụng không ngớt: “Chúc mừng Trấn Quốc Công!”
“Cũng phải chúc mừng Khánh Quốc Công có được cô con gái như vậy, còn mong gì hơn nữa…”
“…”
Ở hàng ghế cuối cùng phía bên phải chính điện, Thích Bạch Thương lặng lẽ cúi đầu.
“Xem ra ngươi đã biết sợ rồi.”
Sau khi nhận vô vàn lời chúc mừng từ các nữ quyến của các gia tộc quyền quý, Tống thị đắc ý nhìn Thích Bạch Thương: “Có nhan sắc thì thế nào? Ngươi còn chẳng được làm thiếp của người ta kia kìa… Dù là Bệ hạ hay Trưởng Công chúa, chẳng ai có thể để một kẻ xuất thân từ thanh lâu như ngươi bước chân vào phủ Trấn Quốc Công đâu!”
Tống thị vừa nói vừa đắc ý nhìn về phía Thích Uyển Nhi đang đứng kề vai với Tạ Thanh Yến: “Uyển Nhi mới là phu nhân của Tạ Thanh Yến, còn ngươi… cùng lắm chỉ là một ả tình nhân lén lút, một món đồ chơi có thể tùy tiện vứt bỏ mà thôi!”
“…”
Thích Bạch Thương siết chặt ngón tay, rồi nàng từ từ bình tâm lại: “Ta khuyên phu nhân bớt lời đi.”
Tống thị quay sang nhìn nàng: “Ngươi còn dám dạy bảo ta sao?”
“Ta không dám, nhưng người khác thì chưa chắc.” Thích Bạch Thương nhìn thẳng vào mắt bà ta, từng câu từng chữ đều lạnh như băng, “Hình như phu nhân quên rồi thì phải, mấy hôm trước ở phủ Trưởng Công chúa, người suýt mất mạng dưới kiếm của Tạ Thanh Yến… rốt cuộc là ta, hay là bà vậy?”
“!”
Bị chạm vào cơn ác mộng khiến bà ta mất ngủ gần một tháng, sắc mặt Tống thị lập tức trắng bệch.
Thích Bạch Thương liếc nhìn đôi kim đồng ngọc nữ đang được lời chúc tụng vây quanh ở đằng xa rồi bỗng chốc khựng lại.
Bên kia đèn đuốc rực rỡ, còn nơi này tối tăm như đêm, chỉ vài bước chân mà cứ ngỡ cách nhau cả một dải ngân hà…
Thích Bạch Thương vừa định cúi xuống, nào ngờ người phía trước đột nhiên quay lại rồi nhìn thẳng về phía cuối chính điện.
Cả hai cứ đứng đó nhìn nhau…
Thích Bạch Thương thấy rất rõ, trong đôi mắt đen thẳm vẫn luôn hờ hững trước vạn lời tán tụng, giờ bỗng dậy lên từng lớp sóng triều cuộn xiết chẳng kìm được.
Thích Bạch Thương bị ánh mắt ấy siết chặt đến sững sờ.
Ngay lúc đó, Tạ Sách ngồi trên ngự tọa bỗng gõ lên ngai vàng: “Ba Nhật Tư, việc ngươi vừa cầu xin trẫm có thật không?”
“Đương nhiên! Đương nhiên là thật!”
Ba Nhật Tư vội vàng đứng dậy, đi vòng qua chiếc bàn dài rồi quỳ giữa điện, khấu đầu.
“Ba Nhật Tư đại diện cho Bắc Yên… Xin cầu hôn quý nữ của phủ Khánh Quốc Công Đại Dận, Thích Bạch Thương! Nguyện kết duyên để củng cố mối giao hảo giữa hai nước, lập lại thái bình cho biên cương phương Bắc!”
Trong khoảnh khắc ấy, cả chính điện bỗng chốc chìm vào một khoảng lặng đến rợn người.
Tạ Thanh Yến quay đầu lại, ánh mắt sắc lẹm, lạnh buốt như lưỡi đao hướng thẳng về phía ngự tọa.