[Sau Khi Thái Tử Đăng Cơ] – Chương 97

Chương 97: Đã tới Kinh Châu

“Cha, chuyện cha nói là thật sao ạ?” Đôi mắt của Cố Nguyên Triều đỏ hoe, huynh ấy lại truy vấn một lần nữa.

Cố thừa tướng vẫn kiên nhẫn trả lời: “Là thật.”

Cố Nguyên Triều gấp gáp hỏi: “Vậy tại sao cha không nói ra, còn thể hiện ra vẻ đau lòng đến thế? Mẹ và đệ đệ giờ đây vẫn còn vô cùng đau khổ, mẹ đã ngất đi mấy lần rồi, còn cả Tuế Tuế nữa, muội ấy sao lại không trở về ạ.”

Cố thừa tướng thở dài một tiếng: “Trước đây Tuế Tuế từng tìm cha hỏi về thuốc giả chết, lúc đó cha đã biết… con bé vẫn không muốn ở bên cạnh Bệ hạ. Nay mọi người đều tin rằng Hoàng hậu đã chết, Tuế Tuế có thể đi sống cuộc đời mà con bé mong muốn. Cha cũng đã xóa sạch mọi dấu vết của con bé và Chiêu Hạ rồi.”

“Trước đây cha giả vờ đau buồn chỉ là để không khiến Bệ hạ sinh nghi. Cha không nói cho các con biết, là vì sợ các con sơ suất để lộ.”

Nghe những lời ấy, cuối cùng Cố Nguyên Triều cũng hiểu ra. Niềm vui khôn xiết lập tức trào dâng, muội muội của huynh ấy vẫn chưa chết! Muội muội của huynh ấy vẫn bình an!

Cố Nguyên Triều đứng bật dậy: “Con phải đi báo cho mẫu thân và Nguyên An biết tin vui này ngay mới được.”

Cố thừa tướng kéo Cố Nguyên Triều lại: “Bây giờ vẫn chưa được. Mẫu thân và đệ đệ của con vui buồn giận hờn đều hiện rõ trên nét mặt. Cha sợ họ sẽ để lộ sơ hở. Hãy chờ thêm một thời gian nữa rồi hãy nói.”

Nghe cha nói vậy, tâm trạng kích động của Cố Nguyên Triều dần lắng xuống. Trên gương mặt của huynh áy lại khôi phục vẻ chín chắn thường ngày: “Được ạ.”

*

Cố Tuế An và Chiêu Hạ đã lái xe ngựa rong ruổi suốt ba tháng, cuối cùng cũng đến được địa phận Kinh Châu.

Trên đường đến Kinh Châu, hai người gặp được rất nhiều dân tị nạn, tất cả đều là người từ vùng Giang Nam chạy nạn sang vì nạn lũ lụt.

Khi hỏi thăm thì mới biết, sau khi tân đế đăng cơ đã cho phép những người dân tị nạn đến các vùng Kinh Châu, Ninh Châu và Vũ Châu để được sắp xếp chỗ ở. Điều kiện để được sắp xếp chỗ ở là họ phải tự mình khai hoang đất. Ai nguyện ý đến ba châu này thì có thể trực tiếp nhập hộ tại đó, hơn nữa mỗi người còn được phát hai tháng lương thực.

Không những thế, đất hoang sau khi được khai hoang và được quan phủ ghi chép vào sổ sách đều được tính là của riêng của người nông dân. Hơn nữa, năm đầu tiên được miễn thuế, năm thứ hai cần phải nộp 40%, và đến năm thứ ba mới phải nộp thuế như bình thường.

Vì vậy, mặc dù rất nhiều người không muốn rời xa quê hương của mình, nhưng vì muốn sống sót họ vẫn phải chạy nạn và tìm đến nơi này.

Vì đã vào địa phận Kinh Châu, nên Cố Tuế An và Chiêu Hạ cũng không còn vội vã lên đường nữa. Khi gần đến buổi trưa, Cố Tuế An và Chiêu Hạ đậu xe ngựa dưới gốc cây để nghỉ ngơi và ăn chút gì đó.

Cố Tuế An ngồi trên chiếc ghế đẩu nhỏ do Chiêu Hạ mua, đang gặm chiếc bánh màn thầu bột trắng. Khuôn mặt của nàng hoàn toàn không còn nhìn ra dáng vẻ trước kia nữa; làn da trắng sáng trong suốt đã trở nên hơi ngăm đen, trong cái đen lại còn pha chút đỏ. Đôi mắt xinh đẹp bị tóc mái bằng che khuất đi rất nhiều, nhưng dù vậy thì người ta vẫn cảm thấy cô nương này có dung mạo không tệ.

Không chỉ có vậy, đôi tay cầm màn thầu của nàng cũng đã tối màu, tất cả những phần da thịt lộ ra ngoài đều được Cố Tuế An thoa thuốc thảo dược lên.

“Cô nương, uống chút nước đi ạ.” Chiêu Hạ mở túi nước ra và đưa cho Cố Tuế An. Chiêu Hạ cũng đã ngụy trang rất nhiều, trông nàng ấy hiện giờ hoàn toàn như một người đàn ông gầy gò và khô khan.

Cố Tuế An gật đầu, nuốt hết miếng màn thầu cuối cùng trong miệng, sau đó nhận lấy túi nước và uống một ngụm.

“Chiêu Hạ, chúng ta còn bao lâu nữa thì đến Lê An vậy?” Cố Tuế An hỏi sau khi uống xong nước và đóng chặt nắp túi nước lại.

Chiêu Hạ nhẩm tính một lúc: “Ước chừng khoảng chiều tối hôm nay là có thể đến Lê An ạ.”

Cố Tuế An gật đầu: “Cuối cùng cũng sắp tới rồi.” Ba tháng ngồi xe ngựa khiến nàng mệt mỏi cả thể xác lẫn tinh thần, kiệt sức và thường xuyên buồn nôn. Lúc này cuối cùng cùng cũng sắp tới rồi nên tâm trạng của nàng cực kỳ tốt, nàng đứng dậy vận động gân cốt đồng thời ngắm nhìn phong cảnh của đồng quê.

Lúc này thời tiết cực kỳ đẹp, trời quang mây tạnh, bầu trời xanh và mây trắng đan xen vào nhau. Bên cạnh là một cánh đồng lúa rộng lớn, trong ruộng còn có vài người dân cúi lom khom làm việc. Không xa là một ngôi làng, lúc này khói bếp đang bay lượn từ trong làng, có làn gió nhẹ thổi qua tạo nên một cảnh tượng yên bình và hài hòa.

Vài người dân đang làm việc trên đồng nghe thấy tiếng xe ngựa liền ngẩng đầu nhìn lên. Cách cánh đồng không xa là con đường bắt buộc phải đi để đến Lê An. Người dân đã không còn thấy lạ với việc có xe ngựa trên đường nữa, nên sau khi nhìn thoáng qua thì họ lại cúi đầu và tiếp tục chăm sóc ruộng lúa đến mức đổ mồ hôi đầm đìa.

Cố Tuế An nhìn những ruộng lúa xanh mướt trên đồng, mạ lúa thưa thớt, hoàn toàn không thể so sánh được với những ruộng lúa dày đặc thời hiện đại, có thể nói là không có nửa điểm nào tương đồng.

Cố Tuế An nhíu mày: “Chiêu Hạ, ta muốn đi xem những cây mạ lúa đó.” Nói rồi, nàng đi về phía bờ ruộng, Chiêu Hạ lập tức vội vã đi theo sau.

Khi lại gần, Cố Tuế An ngồi xổm xuống quan sát kỹ cây mạ lúa. Nó quá kém chất lượng, thân cây mảnh khảnh, lá mỏng và màu nhạt, rễ cây hoàn toàn không phát triển.

Lòng Cố Tuế An chùng xuống. Lúa nước của vương triều Đại Ung trong bối cảnh giả tưởng này hóa ra vẫn là giống lúa nguyên thủy. Thậm chí họ còn chưa kịp du nhập giống lúa Chiêm Thành từ thời nhà Tống trong lịch sử của nàng, nói chi đến việc so sánh với giống lúa lai ở thời hiện đại.

Lúa Chiêm nguyên thủy có chu kỳ sinh trưởng rất dài, mỗi năm chỉ gieo một vụ, sản lượng khá thấp. Nhìn vào chất lượng ruộng lúa này, năng suất mỗi mẫu có lẽ chỉ hơn một trăm cân. Hơn nữa, loại lúa Chiêm này cực kỳ phụ thuộc vào thời tiết. Không phải nói lúa Chiêm Thành hoàn toàn không phụ thuộc vào thời tiết, nhưng so với lúa tẻ thì tốt hơn nhiều, bởi lúa Chiêm Thành có thời gian chín ngắn, một năm có thể gieo hai vụ, nên sản lượng cũng cao hơn.

Những năm qua nàng lớn lên trong phủ thừa tướng nên ăn mặc dùng đồ đều là tốt nhất, ngay cả gạo cũng vậy, chưa từng phải lo lắng vì chuyện cơm gạo. Giờ đây nàng mới nhận ra lúa gạo của Đại Ung lại lạc hậu đến thế, quả thật ứng với câu nói: Sao không ăn cháo thịt?

(Câu nói nổi tiếng của Tấn Huệ Đế: “Mọi người không có gạo ăn sao không ăn cháo thịt?”. Câu này dùng để chỉ những người ở vị trí cao, xa rời thực tế, không hiểu nỗi khổ của dân nghèo.)

Nhưng nàng có thể làm được gì đây? Hiện tại bản thân nàng vẫn đang phải bỏ trốn, chỉ cần sơ suất một chút là thân phận sẽ bị bại lộ.

Xe ngựa chạy nhanh suốt cả đoạn đường, Cố Tuế An nhìn qua cửa sổ ra những cánh đồng rộng lớn bên ngoài. Hiện tại đã là buổi trưa, nhưng vẫn còn rất nhiều thôn dân đang vất vả làm việc trên đồng. Để có thể thu hoạch được nhiều lương thực hơn, họ chỉ có thể trồng thêm thật nhiều. Sự vất vả và thành quả lao động ở thời cổ đại này hoàn toàn không thể tương xứng với nhau, cực khổ cả năm nhưng thu hoạch chẳng được bao nhiêu, lại còn phải nộp thuế nữa.

Mặc dù hiện tại Lý Trọng Yến sau khi đăng cơ đã giảm nhẹ một số khoản thuế, nhưng trong giai đoạn sau của nguyên tác, khi các nước láng giềng xâm phạm, Lý Trọng Yến bắt đầu quyết định chinh chiến. Khi chiến tranh nổ ra, lương thực cần thiết cho binh sĩ cũng sẽ tăng lên, đến lúc đó thuế khóa sẽ bị tăng nặng, những người nông dân này chỉ càng thêm khổ sở không tả xiết.

Cố Tuế An mang theo tâm trạng nặng trĩu đi suốt đường đến thành Lê An. Lúc này cổng thành Lê An đang mở rộng, có rất nhiều người và xe ngựa ra vào tấp nập. Trong số đó, có những chiếc xe ngựa sang trọng và đắt tiền hơn xe của hai người Cố Tuế An, vì vậy bọn họ không quá nổi bật giữa đám đông.

Chỉ có điều là hai bên cổng thành lại có rất nhiều dân tị nạn, và những dân tị nạn này cũng bị trọng binh canh giữ tại cổng thành, không cho phép họ vào trong thành.

Những người dân tị nạn này người nào người nấy đều xanh xao và gầy gò, thân hình khô héo như củi mục, rõ ràng là đã đói đến cùng cực. Trên suốt quãng đường này, Cố Tuế An và Chiêu Hạ thực ra cũng đã gặp không ít dân tị nạn, nhưng Chiêu Hạ hễ gặp là đều nhanh chóng tránh đi. Dù sao, khi người ta đã đói đến mức cùng quẫn thì chuyện gì cũng có thể làm ra. Mặc dù Chiêu Hạ có võ công cao cường, không sợ những lưu dân này, nhưng hiện tại họ đang trên đường bỏ trốn, nên đương nhiên là tránh được phiền phức nào thì tránh.

Cố Tuế An mím môi lại rồi nghi hoặc cất tiếng hỏi: “Những người dân tị nạn này không được vào thành sao? Không phải nói là đến Kinh Châu sẽ được sắp xếp chỗ ở ư?”

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *