Chương 11
Lý Độ giữ đúng lời hứa, sáng dậy liền quay về căn hộ của Trần Đoan Thành, dọn dẹp vệ sinh một lượt nữa. Sau đó cô nấu một nồi cháo, trong tủ lạnh có dưa muối, cô ăn hai bữa cháo với dưa muối mà không hề ra ngoài, chỉ ở nhà đọc cuốn sách tiếng Pháp mới mua.
Đến tối, bên ngoài trời bắt đầu mưa, lúc đầu chỉ là mưa nhỏ, sau đó càng lúc càng nặng hạt, lại còn có gió. Lý Độ thu quần áo phơi ngoài ban công vào, gấp lại gọn gàng rồi cất vào tủ quần áo, sau đó xem ti vi một lúc. Các kênh đều đang chiếu phim bộ, Lý Độ vốn ít xem ti vi nên cũng không biết họ đang chiếu gì.
Thấy chẳng có gì thú vị, cô tự mình đi gội đầu, tắm rửa, sấy khô tóc, bật đèn đầu giường, dựa vào đầu giường đọc sách, chẳng bao lâu sau đã thiếp đi lúc nào không hay.
Chuyến bay của Trần Đoan Thành bị hoãn nên rất muộn anh mới về đến nhà. Vừa bước vào phòng ngủ, thấy gương mặt ngủ say yên bình của Lý Độ dưới ánh đèn dịu nhẹ, chăn cũng chưa đắp, trong tay vẫn ôm một quyển sách. Trong lòng anh trào dâng một cảm giác dịu dàng, anh cúi đầu đắp chăn cho cô, nhẹ nhàng hôn lên đôi môi đỏ mọng của Lý Độ. Anh yêu say đắm đôi môi ấy của cô, không cần tô son mà vẫn đỏ tươi, đầy đặn và đáng yêu.
Lý Độ mơ màng tỉnh dậy, mở mắt ra thấy là Trần Đoan Thành, cô lẩm bẩm hỏi: “Mấy giờ rồi, chẳng phải anh nói sẽ ở lại mấy ngày mới về sao?”
“Ở đó chán lắm, có nhiều người anh cũng không quen biết, anh để A Dương ở lại thêm mấy hôm, còn mình thì về trước.”
“Anh tắm chưa đấy?”
“Sao em ngủ mà còn đọc sách thế? Chăn cũng không đắp!” Trần Đoan Thành buồn cười, cô suốt ngày chỉ nghĩ đến chuyện tắm rửa.
Lúc này Lý Độ đã tỉnh táo hơn một chút: “Anh nói ngược rồi, phải là sao đang đọc sách lại ngủ quên chứ!”
Trần Đoan Thành mỉm cười, mở vali ra, lấy một chiếc hộp cứng đưa cho Lý Độ.
Lý Độ nghi hoặc nhận lấy chiếc hộp, chiếc hộp màu xám được thiết kế tinh xảo, phía trên có mấy chữ cái tiếng Anh không quá lớn: Jaejer-LeCoultre. Lý Độ mở hộp ra, bên trong là một chiếc đồng hồ nữ bằng vàng hồng nằm yên tĩnh, dây đeo bằng da cá sấu, mặt đồng hồ đơn giản mà tinh tế, ánh sáng dịu nhẹ và khiêm nhường, mọi chi tiết đều toát lên vẻ xa hoa.
Tuy Lý Độ không biết đây là thương hiệu đồng hồ gì, nhưng cô chắc chắn rằng nó không hề rẻ.
“Thích không? Tặng em đó!” Trần Đoan Thành khẽ nói.
Lý Độ không biết nên đáp thế nào, cô nói: “Anh mua cái này làm gì? Chắc chắn rất đắt đúng không!”
“Không sao đâu, cũng chẳng đáng bao nhiêu, em đeo thử xem!” Anh khuyến khích cô.
Lý Độ cúi mắt nhìn đồng hồ nhưng không nhúc nhích.
Trần Đoan Thành kéo tay Lý Độ lại, nhất định muốn đeo cho cô.
Phải nói rằng, đồ đắt tiền quả thật có lý do của nó, chiếc đồng hồ ấy khi đeo lên cổ tay Lý Độ liền ánh lên vẻ đẹp lấp lánh.
“Nhìn xem, hợp với em biết bao!” Anh khen ngợi.
Lý Độ tháo đồng hồ ra, đặt lại vào hộp rồi nói: “Chiếc đồng hồ đắt thế này, anh bảo em đeo ra ngoài kiểu gì, người ta sẽ nghĩ một hướng dẫn viên du lịch thì lấy đâu ra nhiều tiền như vậy?”
“Em cứ nói là hàng giả, mua có hai trăm mấy thôi.” Trần Đoan Thành đã nghĩ sẵn câu trả lời giúp cô.
“Anh tưởng ai cũng là kẻ ngốc chắc? Đồng hồ như vậy mà bảo mua hai trăm mấy!”
“Em không biết đấy thôi, ở Hồng Kông có một chỗ chuyên bán hàng giả, kiểu gì cũng có, muốn Rolex thì có Rolex, Piaget cũng có luôn, em cần Vacheron Constantin hay Patek Philippe đều có cả, tám trăm là đầy đủ giấy tờ, y như thật luôn!”
“Vậy là anh cũng mua ở đó hả?” Lý Độ bật cười.
Trần Đoan Thành kéo Lý Độ vào lòng, khẽ thở dài một tiếng: “Anh làm sao nỡ dùng hàng giả để lừa em được chứ?”
Lý Độ ngẩng đầu nhìn anh, mắt long lanh ánh nước.
Hôm sau, Lý Độ đến công ty lấy lịch trình chuẩn bị cho chuyến dẫn đoàn ngày mai, thì gặp một nữ hướng dẫn viên khác đang than thở liên tục rằng mấy đoàn gần đây cô ấy đều không kiếm được tiền. Cô ta kéo tay áo Lý Độ, kể lể nỗi khổ của mình: “Đoàn trước chỉ kiếm được hơn một trăm tệ, đoàn trước nữa còn thảm hơn, không được đồng nào, còn phải móc tiền túi bù tiền xe mấy chục tệ! Tôi nghĩ bụng, lần này chắc cũng phải bù đắp được chút đỉnh chứ? Ai dè, nhìn mà xem, lại là một đoàn ‘hoàng hôn đỏ’ nữa! (ý chỉ đoàn du lịch người già) – cả tháng này coi như làm không công rồi!”
Cô ấy đưa lịch trình cho Lý Độ xem, Lý Độ nhìn thoáng qua, đúng là “Hoàng hôn đỏ”, liền nhẹ giọng nói với cô ấy: “Tôi cũng dẫn đoàn ‘Hoàng hôn đỏ’ đấy, nghe nói chuyến tàu chuyên tuyến này có hơn một nghìn người, phần lớn hướng dẫn viên trong công ty đều dẫn đoàn này.”
Nữ hướng dẫn viên còn định nói gì đó, bỗng nhiên thấy quản lý bộ phận hướng dẫn là Vương Viễn Huy tay cầm một ly trà đang đi về phía họ.
Cô lập tức ngậm miệng lại rồi ngượng ngùng bỏ đi.
Vương Viễn Huy đi tới, dừng lại, vừa nhấp trà chậm rãi vừa cười khẩy đầy khinh miệt, nói với Lý Độ: “Cô đừng để ý đến cô ta, miệng lúc nào cũng không có câu nào thật lòng. Lúc nào cũng than là không kiếm được tiền. Nếu dẫn đoàn nào cũng không có lời thì còn ở lại công ty làm gì? Về nhà trông con cho xong!”
Lý Độ đứng đó có phần lúng túng, không biết nên đáp lại thế nào.
Thật ra, Vương Viễn Huy đối xử với Lý Độ rất tốt. Bởi vì cô không hay than phiền, phân cho đoàn nào thì dẫn đoàn đó, không so đo, không chọn việc. Người thì xinh đẹp lại khiêm tốn, Vương Viễn Huy luôn cảm thấy có một thứ tình cảm thân thiết khó nói đối với cô. Cho nên, những đoàn mà vừa ít tiền vừa nhiều chuyện ông đều không giao cho Lý Độ, thỉnh thoảng còn nhắc nhở cô phải giữ quan hệ tốt với bộ phận tài vụ của công ty, ông ấy có phần xem cô như em gái nên trong lòng Lý Độ cũng rất cảm kích.
Vương Viễn Huy dặn dò: “Chuyến tàu chuyên tuyến lần này đông người lắm, có mấy công ty cùng tham gia. Em nhất định phải xác nhận kỹ phòng khách sạn với bên họ trước, đừng để đến lúc đó nhầm lẫn rồi bị khiếu nại.”
Lý Độ lần lượt gật đầu đồng ý. Bất chợt, ánh mắt sắc sảo của Vương Viễn Huy nhìn thấy chiếc đồng hồ trên tay cô, liền hỏi: “Đây hình như là đồng hồ Jaeger-LeCoultre đúng không?”
Chiếc đồng hồ đó là do sáng nay trước khi ra khỏi nhà, Trần Đoan Thành nhất quyết bắt cô đeo, không đeo thì không cho đi. Lý Độ vốn định đến công ty sẽ tháo ra, nhưng rốt cuộc lại quên mất.
Cô cuống quýt tháo đồng hồ xuống, định nhét vào trong túi, miệng lắp bắp: “Chỉ là đồng hồ giả thôi, em đeo chơi ấy mà!”
Vương Viễn Huy lập tức giật lấy đồng hồ từ tay cô, cầm lên ngắm nghía kỹ càng rồi khẳng định: “Đồng hồ giả? Đây là mẫu mới nhất của Jaeger-LeCoultre đấy, một cái phải hơn cả trăm ngàn, đến anh còn chưa đủ khả năng mua đấy!”
Lý Độ sững sờ, ngạc nhiên hỏi lại: “Đắt vậy sao?” Cô biết đồng hồ này không rẻ, nhưng thật sự không ngờ lại lên đến hơn trăm ngàn tệ.
Vương Viễn Huy nhíu mày: “Em không biết à?”
Lý Độ hơi đỏ mặt, lắp bắp đáp: “Là một người bạn tặng cho em…”
Vương Viễn Huy cười nói: “Bạn trai hả? Có bản lĩnh đấy! Bảo sao trong công ty bao nhiêu chàng trai trẻ tài giỏi mà em chẳng để mắt đến ai!”
“Không phải em chê đâu, chỉ là bây giờ em không muốn tìm bạn trai thôi. Hơn nữa, em với anh ấy thật sự chỉ là bạn bình thường thôi!” Lý Độ không biết nên giải thích thế nào.
“Có gì đâu mà ngại, hôm nào hẹn ra ăn bữa cơm đi, để anh giúp em xem thử là người thế nào!” Vương Viễn Huy tưởng cô đang xấu hổ.
Lý Độ bắt đầu sốt ruột: “Thật sự không phải đâu, chúng em chỉ là bạn bè bình thường thôi!”
“Bạn bè bình thường mà ra tay một cái là tặng đồng hồ Jaeger hơn trăm ngàn à? Anh nói rồi mà, trai trẻ bình thường nào có tầm cỡ như vậy?” Nụ cười của Vương Viễn Huy dần thu lại, ánh mắt nhìn Lý Độ đầy ẩn ý, rồi chậm rãi nói: “Lý Độ à, con gái lúc còn trẻ, tươi tắn như một đóa hoa, ai thấy cũng muốn hái một cái. Miệng thì ai cũng bảo hái về nhà để chăm sóc, nhưng có mấy ai thực sự nuôi? Cuối cùng trong phòng khách người ta đặt vẫn là khúc củi già thôi! Anh đây cũng thế mà!”
Vương Viễn Huy uống một ngụm trà, thản nhiên nói: “Những lời hôm nay, theo lý thì là quen chưa sâu mà nói quá nhiều, nhưng trong mắt anh thì đã coi em như em gái ruột rồi. Đã là em gái, nếu lời anh có hơi nặng thì em cũng đừng để bụng. Còn nếu anh có nói sai, thì anh xin lỗi em vậy, coi như anh trai nhận lỗi.”
Lý Độ đỏ bừng cả mặt vì xấu hổ, từ nhỏ đến lớn, cô chưa từng bị ai nói như vậy. Nhưng Vương Viễn Huy thực sự coi cô là em gái, sợ cô đi sai đường nên mới nói ra những lời ấy. Lời lẽ ngọt ngào ai cũng có thể nói được, nhưng những câu răn dạy thẳng thắn thì dễ làm mất lòng người!
Lý Độ cúi đầu, khẽ nói: “Anh Huy, không phải như vậy đâu!” Nhưng rốt cuộc giữa cô và Trần Đoan Thành là như thế nào, thật ra chính cô cũng không nói rõ được, mà cũng không biết nữa!
Vương Viễn Huy nhìn cô, thở dài rồi nói: “Anh biết, em là một cô gái tốt và biết chừng mực. Anh chỉ muốn nhắc nhở một chút thôi.” Nói xong, anh không nhìn Lý Độ nữa, chỉ phất tay ra hiệu cho cô đến phòng tài vụ nhận phiếu ký.
Lý Độ bỏ đồng hồ vào túi xách, sau đó cô chậm rãi bước đến phòng tài vụ để nhận phiếu ký của đoàn.
Tối về nhà, Lý Độ không nhắc đến chuyện này với Trần Đoan Thành, nhưng từ đó trở đi, cho dù Trần Đoan Thành có nói thế nào, cô cũng không bao giờ đeo lại chiếc đồng hồ ấy nữa.
Lý Độ dẫn một đoàn du lịch “Hoàng hôn đỏ”, như cái tên đã nói, toàn là người già. Nhiều cụ lần đầu tiên nhìn thấy biển, thấy lạ lẫm vô cùng, cởi giày ra vừa hát vừa nhảy, mải mê đến quên cả thời gian. Lý Độ đứng bên bờ biển, dưới cái nắng gay gắt, vất vả gọi họ lên xe.
Tuy các cụ khá phiền phức và hay tính toán, nhưng Lý Độ vẫn kiên nhẫn giải thích, luôn theo sát mọi người, nên các cụ đều rất quý cô. Lý Độ để ý thấy trên xe có một bà cụ họ Từ, không tham gia bất kỳ điểm tham quan tự túc nào. Các điểm này không nằm trong chi phí tour, du khách phải tự trả thêm khi đến nơi. Có người tham gia hết tất cả các điểm, có người chọn vài điểm, ít nhất cũng đi một hai chỗ. Nhưng chỉ riêng bà cụ họ Từ là không đóng tiền cho bất kỳ điểm nào. Mỗi khi mọi người đi chơi, bà lại ngồi lặng lẽ ngoài cổng. Lý Độ hỏi thì bà chỉ nói là mệt, không muốn đi. Thế nhưng Lý Độ nhận ra, ở những điểm tham quan không mất phí, bà cụ Từ lại chơi rất vui vẻ.
Lý Độ quyết định hỏi xem chuyện gì đã xảy ra. Hầu hết các cụ trong đoàn đều quen biết nhau, nên cô hỏi một bà cụ Lưu trông có vẻ thân thiết với bà cụ Từ: “Dì Lưu ơi, sao bà Từ không đi điểm tham quan nào cả vậy? Có phải bà không thích đi chơi bên ngoài không ạ?”
Bà cụ Lưu nhỏ giọng nói: “Không phải là bà ấy không muốn đi đâu, ngược lại bà ấy muốn lắm! Nhưng bà ấy không có tiền!”
Lý Độ tiếp tục hỏi bình thản: “Ra ngoài chơi sao lại không có tiền được, dì Lưu, dì đang đùa cháu đấy ạ!”
Bà cụ Lưu nắm lấy tay Lý Độ, nghiêm túc nói: “Ta không lừa cháu đâu, chồng bà ấy mất rồi, bà sống với con gái, giúp con gái trông cháu và làm việc nhà. Ban đầu con gái bà không cho bà đi, bà không chịu, nói đời này chưa từng đi du lịch, ai cũng nói Hải Châu đẹp, nhất định phải đi. Thế là con gái bà ấy mới đóng tiền tour cho, nhưng không cho bà một đồng tiền tiêu vặt nào, tiền ăn trên tàu cũng là ta giúp bà ấy trả!”
Lý Độ hỏi: “Vậy con gái của bà ấy có phải kinh tế không được khá lắm không?”
Bà cụ Lưu cười một tiếng: “Có gì mà không khá, nhà có tới ba căn, trong nhà còn có cả xe nữa! Chỉ là không muốn cho bà ấy tiêu tiền thôi!”
Khi đến điểm tham quan tự túc tiếp theo, các cụ già chen chúc ở cửa, giơ tay đòi Lý Độ lấy vé, như những chú chim non háo hức chờ được cho ăn.
Bà cụ Từ rất ý thức, không đứng cùng đám đông mà ngồi xa xa dưới bóng cây. Lý Độ phát vé xong, dặn dò vài câu rồi để các cụ vào điểm tham quan trước.
Lý Độ đi đến bên bà cụ Từ, đưa cho bà một vé: “Dì ơi, dì cũng đi cùng bọn cháu nhé!”
Bà cụ Từ cúi đầu, hoàn toàn không nhìn vé, chỉ lẩm bẩm nói: “Ôi, hướng dẫn viên Lý, tôi mệt lắm, không đi được đâu, tôi sẽ ngồi đây đợi họ về, cô không cần lo cho tôi đâu.”
“Không sao đâu ạ, nếu mệt thì chúng ta có thể quay về ngay!” Lý Độ đẩy vé lại gần bà.
Bà cụ Từ hơi ngạc nhiên, không dám nhận vé, không hiểu ý Lý Độ muốn nói gì.
Lý Độ nhét vé vào tay bà, nói: “Cháu mua thừa vé, vừa rồi ở cổng kiểm tra không cho trả lại, thôi bà giúp cháu đi ạ, vào trong đi dạo một vòng là được ạ.”
Bà cụ Từ nhìn vé trong tay với vẻ nghi hoặc, quả thật vé đã bị xé mất một góc, lắp bắp nói với Lý Độ: “Hướng dẫn viên Lý, lần sau cháu nhớ đếm cho kỹ, đừng mua thừa nữa nhé!”
Không lâu sau, bà nhận ra vé là Lý Độ mua riêng cho mình, bởi vì những điểm tham quan tự túc tiếp theo đều có vé dành cho bà. Ai lại mua vé thừa hoài như vậy chứ? Nhưng mỗi lần Lý Độ đưa vé cho bà rồi lại quay đi lo cho những người khác, nên bà cũng không tiện nói gì.
Cho đến đêm trước ngày về, mọi người đều đang ăn tối ở tầng hai, còn Lý Độ đứng ở quầy thu ngân tầng một ký hóa đơn.
Bà cụ Từ lặng lẽ bước tới, nói với Lý Độ: “Hướng dẫn viên Lý, ta biết là cháu mua vé riêng cho ta, ta thật sự không biết phải cảm ơn cháu thế nào!”
Lý Độ mỉm cười: “Cháu quen thân với người bán vé nên xin được vé miễn phí ạ, bà đừng để tâm nhé!”
Sau đó, Lý Độ lại lấy ra mấy trăm tệ từ trong túi, đặt vào tay bà Từ: “Cái này bà cầm lấy để mua đồ ăn trên tàu nhé!”
Bà Từ cuối cùng cũng không kìm được nữa, nước mắt trào ra, chảy dọc theo những nếp nhăn, ướt đẫm cả khuôn mặt. Bà nắm chặt tay Lý Độ, nghẹn ngào nói: “Hướng dẫn viên Lý, cháu làm vậy bà thật không biết phải nói gì cho phải! Số bà khổ, ông nhà mất sớm, con gái thì coi bà như người làm, bà đã từng chỉ mong chết sớm một chút, chết rồi thì không phải chịu khổ nữa!”
Bà lão dùng đôi tay run rẩy lau nước mắt, ngẩng đôi mắt mờ đục lên nhìn Lý Độ, nói: “Cháu còn tốt hơn cả con gái ruột của bà. Bà trông cháu ngoại, nấu ăn, đi chợ cho nó, vậy mà một xu nó cũng tiếc không muốn cho. Lần này đến Hải Châu, bà biết cả đời mình chỉ có một lần đi xa như vậy. Cả đời bà chưa từng thấy biển, chỉ muốn đến nhìn một lần, có chết cũng đáng!”
“Nó không cho bà đi, nói già rồi còn xem biển gì nữa, nhưng bà chỉ muốn xem biển, chỉ muốn được nhìn thấy biển một lần thôi… chỉ thế thôi…”
Bà Từ cứ lặp đi lặp lại, khóc lóc như một đứa trẻ, khiến Lý Độ vốn không giỏi đối phó với những tình huống như vậy chỉ còn biết buông tay xuống, im lặng đứng đó. Một lúc sau, cô mới khẽ hỏi: “Người đó đối xử với bà như vậy… sau này sẽ không hối hận sao?”
Bà lão lại bắt đầu khóc: “Tôi cũng từng hỏi nó, tôi nói: con đối xử với mẹ như vậy, đợi mẹ chết rồi, con không hối hận sao? Nó nói, chỉ cần sống không thẹn với lòng mình là được, hơi đâu mà lo cho người khác!”
Lý Độ thở dài, không biết phải an ủi bà thế nào, đành lên lầu gọi dì Lưu xuống, nhờ dì khuyên nhủ bà một chút.
Dì Lưu vừa cảm ơn Lý Độ, vừa nắm tay bà Từ dắt đi.
Tối hôm đó sau khi tiễn tàu xong, Lý Độ không đến căn hộ của Trần Đoan Thành, mà quay về căn nhà trọ của riêng mình.
Căn nhà này vì mới được dọn dẹp mấy hôm trước nên rất sạch sẽ, Lý Độ không cần dọn lại nữa, cô ngồi trước cửa sổ gọi điện cho cha mình là Lý Quảng Hải. Trong mấy năm cô ở Hải Châu, thỉnh thoảng có về nhà vài lần, nhưng Lý Quảng Hải chưa từng đến thăm cô, hai bố con cũng rất ít khi gọi điện cho nhau.
Nghe giọng bố qua điện thoại, tuy vẫn ngắn gọn như mọi khi, nhưng Lý Độ nhận ra rằng việc cô gọi điện khiến ông rất vui. Điều đó khiến cô cảm thấy hơi chua xót trong lòng.
Lý Quảng Hải hỏi về chuyện đi Pháp: “Đã nộp hồ sơ xin đi học chưa?”
Lý Quảng Hải hiểu rõ tính cách của Lý Độ không phù hợp để phát triển sự nghiệp trong nước, nên từ sớm đã thúc giục cô sang Pháp học thạc sĩ. Mỗi lần hai bố con gọi điện, ông đều không quên hỏi đến chuyện này.
“Có mấy trường con muốn cân nhắc thêm một chút, cũng sắp xong rồi ạ.”
“Vậy con phải nhanh lên.”
“Vâng.”
Lý Quảng Hải lại dặn dò: “Ở cơ quan phải tôn trọng lãnh đạo, tuân theo sắp xếp!”
“Con biết rồi, bố!”
Im lặng một lúc, Lý Độ khẽ gọi: “Bố, bố dạo này có khỏe không?”
“Bố rất khỏe, con đừng lo lắng!”
Khi sắp kết thúc cuộc gọi, Lý Quảng Hải đột nhiên hỏi: “Con có đủ tiền tiêu không?”
Lý Độ đáp: “Con đủ mà, bố đừng lo ạ.”
“Ừ, vậy con làm việc đi, phải nghiêm túc đấy!”
Cuộc trò chuyện giữa hai người vẫn giống như khi cô còn nhỏ, lúc cô mang cơm từ nhà ăn về, hai bố con ngồi đối diện nhau, im lặng ăn cơm. Thỉnh thoảng mới nói vài câu, nhưng lời nào nói ra cũng chắc như đinh đóng cột. Lý Quảng Hải là quân nhân cả đời, ông luôn coi Lý Độ như một người lính nhỏ của mình, dạy dỗ nghiêm khắc nhưng đầy bao dung.
Gia đình của Lý Độ vô cùng đơn giản: chỉ có cô và bố là Lý Quảng Hải, thậm chí họ hàng thân thích cũng rất ít. Bên phía bố, ông bà nội chưa từng đến nhà Lý Độ lần nào, họ lần lượt qua đời khi Lý Độ còn học tiểu học. Lúc đó, cô không về chịu tang, bố cô cũng chỉ về quê một hai ngày rồi quay lại. Cô còn có một người cô tên là Lý Mỹ Chi, từng đến nhà cô hai lần, nhưng đến giờ Lý Độ cũng gần như không còn nhớ rõ mặt bà ấy nữa.
Còn về họ hàng bên ngoại, Lý Độ đến mẹ ruột còn không có, thì làm gì có họ hàng bên ngoại chứ?
Từ khi có ký ức, Lý Độ chưa từng gặp mẹ ruột của mình, nhưng cô biết mẹ trông như thế nào. Cô có một tấm ảnh, tình cờ phát hiện được trong ngăn kéo của Lý Quảng Hải. Ở một góc ngăn kéo ấy có một tấm bằng khen bố cô được tặng huân chương hạng ba khi còn trong quân đội, và tấm ảnh đó rơi ra từ bên trong bằng khen ấy.
Tấm ảnh đã cũ, là hình một người phụ nữ trẻ đang bế một bé gái sơ sinh. Người phụ nữ ấy rất xinh đẹp, nhưng không phải kiểu đẹp dịu dàng, mà mang nét cứng cỏi, có phần anh khí nơi chân mày giống hệt như Lý Độ. Bà ấy mặc chiếc áo vest kiểu cũ với ba chiếc cúc, bên trong là áo len cổ cao, rất thịnh hành vào thời đó. Trong lòng bà là một bé gái – chính là Lý Độ khi còn nhỏ – mặc áo khoác hoa nhí, đầu đội mũ len trắng xù, lộ ra vài lọn tóc xoăn dưới vành mũ. Điểm này là do Lý Độ thừa hưởng từ bố mình. Tóc của Lý Quảng Hải tuy không xoăn tít như cô, nhưng cũng không phải tóc thẳng.
Ở một góc tấm ảnh có mấy chữ: “Hiệu ảnh trấn Phương Sơn” – đó chính là quê ngoại của mẹ cô, cách quê nội của Lý Quảng Hải hơn một trăm cây số. Thông tin này là do cô ruột lén kể cho Lý Độ biết.
Mặt sau tấm ảnh có dòng chữ: “Kỷ niệm đầy tháng của Lý Du”, phía dưới ký tên là Du Thu Hồng. Lý Độ đoán rằng tên ban đầu của cô là kết hợp họ của cả cha lẫn mẹ. Sau khi cha mẹ ly hôn, Lý Quảng Hải đã đổi tên cô thành Lý Độ.
Lý Độ cất tấm ảnh vào trong một cuốn sách của mình, Lý Quảng Hải không hề phát hiện ra. Cô thầm nghĩ, có lẽ bố mình đã sớm quên mất sự tồn tại của tấm ảnh đó rồi.
Lý Độ có thể không có mẹ, nhưng không thể không có bố.
Có một lần, một bạn học ngã đập đầu ở trường, khóc lớn thảm thiết, miệng cứ gào lên: “Tôi muốn tìm mẹ!” Lý Độ trong lòng thấy rất khó hiểu, tìm mẹ để làm gì chứ? Tìm được mẹ thì sẽ hết đau sao? Không phải nên đi tìm bác sĩ à?
Lý Quảng Hải không giống những bậc cha mẹ khác luôn quan tâm chăm sóc con cái chu đáo. Điều Lý Độ thường thấy nhất chính là bóng lưng trầm mặc của ông, một mình ngồi đó lặng lẽ hút thuốc, không nói một lời, sống lưng luôn thẳng tắp, đôi vai rộng và vững chãi.
Hai cha con rất ăn ý, cuộc sống trôi qua một cách yên bình và hòa hợp: việc dọn dẹp do Lý Độ đảm nhận, ăn uống thì ra nhà ăn, quần áo cứ bỏ vào máy giặt. Lý Quảng Hải rất hiếm khi mắng cô, thường chỉ là ra lệnh, còn Lý Độ thì lặng lẽ chấp hành, đúng chất con nhà binh!
Trong ký ức của Lý Độ, Lý Quảng Hải rất hiếm khi cười, vẻ mặt lúc nào cũng cứng rắn và nghiêm nghị. Thỉnh thoảng, hai bố con sẽ cùng nhau đi bơi, cùng nhau chạy bộ.
Nhưng phần lớn thời gian, Lý Độ luôn cô đơn lẻ bóng, tự mình đến trường, rồi tự mình tan học về nhà.
Mỗi khi cảm thấy cô đơn, cô lại cầm lấy vợt bóng bàn, hoặc tìm người đấu tập, hoặc tự mình vung vợt một cách lặng lẽ.
Hoặc là xuống sông Trường Giang bơi qua bơi lại, cứ thế bơi cho đến khi kiệt sức.
Giống như bị nghiện vậy, Lý Độ không biết mệt mỏi, cứ lặp đi lặp lại hai việc đó.
Lý Độ cứ thế lớn lên, trở thành một người kiên cường nhưng lãnh đạm. Tuy nhiên, sự lãnh đạm của cô không phải là lạnh lùng. Do được dạy dỗ cẩn thận, cô luôn mỉm cười khi nói chuyện với người khác, nhưng người ta vẫn có thể cảm nhận rõ ràng sự khách sáo và khoảng cách ẩn sau nụ cười ấy.