Thám Hoa – Chương 13

Chương 13

Khi Cơ Dần Lễ cùng Công Tôn Hoàn bước ra khỏi Hàn Lâm Viện, đã thấy một thái giám đứng chờ sẵn, tay nâng ba bản lý lịch quan viên. Thì ra trước khi Nhiếp Chính Vương vào phòng trực, Công Tôn Hoàn đã sớm sai người tìm một thái giám chân chạy nhanh, đến kho lưu trữ lấy về hồ sơ của ba nhân tài kia.

Thấy ánh mắt của điện hạ nhìn sang mình, Công Tôn Hoàn liền hỏi: “Điện hạ có muốn xem qua không?”

Vừa trò chuyện xong với vị Thám Hoa lang, Cơ Dần Lễ đã có ấn tượng rất tốt về người ấy, liền phất tay ra hiệu: “Đưa lý lịch của vị Thám Hoa lang kia lên trước.”

Công Tôn Hoàn liền vội vàng lấy ra bản lý lịch của Trần Kim Chiêu từ ba bản hồ sơ rồi dâng lên trước mặt. Sau đó, y còn đưa chiếc đèn lồng sừng dê trong tay lại gần thêm một chút.

Cơ Dần Lễ vừa chậm rãi bước đi, vừa lướt mắt đọc nhanh từng trang hồ sơ của người đó.

Người huyện Ô Thành, quận Ngô, xuất thân từ một gia đình nông học, không có danh tiếng hay địa vị nổi bật trong dòng tộc. Thuở nhỏ mồ côi cha, ban đầu theo học ở huyện Ô Thành. Sau khi thi đỗ tú tài thì cả nhà chuyển đến quận thành, vào học tại Đông Lâm học viện. Năm Thái Sơ thứ năm thi đỗ hạng tám trong kỳ thi hương, nổi danh khi tuổi còn trẻ, từng gây chấn động khắp quận Ngô trong một khoảng thời gian dài.

Sau này vì việc học mà cả gia đình chuyển đến hoàng đô, nàng cũng theo học dưới trướng của Viên Thủ Nhân – Trợ giáo của Quốc Tử Giám.

Ánh mắt của Cơ Dần Lễ dừng lại một lúc ở cái tên Viên Thủ Nhân, hắn bỗng hơi nhướng đôi mắt phượng rồi hỏi: “Thám Hoa Lang và vị ân sư ấy có từng xảy ra bất hòa chăng?”

“Điện hạ anh minh, quả thực không gì thoát khỏi đôi mắt tinh tường của ngài.” Công Tôn Hoàn cười đáp, rồi giải thích nguyên nhân mâu thuẫn giữa thầy trò: “Nói ra thì bắt nguồn từ nhân duyên của Trần Thám Hoa. Khi hắn vừa đến kinh đô bái sư dưới trướng của Viên tiên sinh, thì quan hệ thầy trò vẫn còn khá hòa hợp. Trần Thám Hoa có tướng mạo xuất chúng, học vấn không tệ, phẩm hạnh lại thuần lương, nên cũng được Viên tiên sinh để mắt tới. Nhưng rắc rối nằm ở chỗ dung mạo của hắn quá phi phàm, khiến Viên nhị tiểu thư trong phủ đã để ý đến.”

Cơ Dần Lễ hỏi: “Là hắn không muốn cưới, hay chính Viên sư phụ đã ra tay chia rẽ đôi uyên ương?”

“Chính là trường hợp trước. Nghe nói Viên tiên sinh vốn có ý gả ái nữ, nhưng Trần Thám Hoa lấy cớ đã có hôn ước để khéo léo từ chối. Nào ngờ Viên nhị tiểu thư tính tình cố chấp, nhất quyết không lấy ai khác ngoài Trần Thám Hoa. Viên tiên sinh thương con nên bất đắc dĩ phải nhắc đi nhắc lại việc này, thậm chí còn chịu nhượng bộ, đồng ý để Trần Thám Hoa lấy vị hôn thê kia làm lẽ. Không ngờ vẫn bị đối phương từ chối nhẹ nhàng. Từ đó, Viên tiên sinh sinh lòng hiềm khích, sau này không cho phép Trần Thám Hoa đến phủ thăm hỏi, ngay cả lễ vật dịp tết tiết đưa đến cũng đều bị lạnh lùng từ chối.”

Cơ Dần Lễ nghe vậy liền hiểu rõ mọi chuyện.

Sau trận bệnh nặng vào năm Thái Sơ thứ bảy, Bình Đế đã bắt đầu có dấu hiệu suy yếu, như mặt trời sắp lặn về phía tây.

Viên sư phụ đang giữ chức tại Quốc Tử Giám, tất nhiên tai mắt linh thông, không thể không hay biết chuyện này. Nếu mối quan hệ giữa hai thầy trò thật sự hòa thuận, thì dù thế nào cũng sẽ có lời nhắc khéo, khuyên người kia đừng tham gia khoa cử lần này.

Vào triều làm quan vào thời kỳ cuối triều đại thì có gì khác biệt?

Những gia tộc tai mắt linh thông ở kinh thành đều không để con cháu mình tham gia vào lúc này, mà kiên nhẫn chờ thêm hai năm, đợi tân đế đăng cơ mở khoa ân thí. Đến khi ấy, những tân tiến sĩ đỗ đạt vào triều sẽ trở thành môn sinh của hoàng đế mới, so với các cựu thần thì càng dễ được tân đế trọng dụng hơn.

Hiểu rõ sự tình, Cơ Dần Lễ liền tiếp tục đọc tiếp nội dung trong lý lịch.

Tiếp theo là thành tích hai năm làm quan của nàng, không nghi ngờ gì, cả hai năm đều bị đánh giá loại thấp. Nhìn những lời phê bình không chút nể nang từ vị thượng quan ở Hàn Lâm Viện ghi trong lý lịch, hắn liền hiểu rõ, vị thượng quan ấy đã sớm tính toán, chỉ đợi hết ba năm nhiệm kỳ là sẽ trực tiếp đuổi vị Thám Hoa họ Trần ra khỏi kinh thành.

Cơ Dần Lễ khẽ cười mà không tỏ rõ ý kiến, hắn tiện tay đưa bản lý lịch cho người đứng bên cạnh.

“Văn Hựu, trong số những tiến sĩ đỗ đạt năm Thái Sơ thứ bảy, có bao nhiêu người đang làm quan trong triều?”

Công Tôn Hoàn ngẫm nghĩ một lát, rồi nói: “Tính cả những người được phái đi nhậm chức ở địa phương hoặc đang chờ bổ nhiệm, cũng chỉ chiếm chưa đến một nửa ạ.”

Kỳ thi khoa cử năm Thái Sơ thứ bảy, thực ra vẫn có khá nhiều sĩ tử tham gia.

Một phần là những sĩ tử từ phương xa không rõ nội tình, một phần là con cháu thế gia tự phụ vào xuất thân, chẳng buồn cân nhắc thiệt hơn, còn một phần thì không đủ tự tin đối mặt với cuộc tranh đấu long tranh hổ đấu ở kỳ thi sau, nên cũng chẳng bận tâm con đường làm quan sau này ra sao, chỉ mong đỗ đạt lúc này để cầu chút danh phận.

Tuy nhiên, vì hành động bất ngờ của Bình Đế năm ấy, nên nhiều tiến sĩ đỗ đạt trong kỳ thi năm đó đã từ chối vào triều làm quan. Đặc biệt là mười người đứng đầu kỳ điện thí, có vài người thậm chí phẫn nộ từ quan để bày tỏ sự bất mãn trước việc Bình Đế phá lệ đề bạt.

Cơ Dần Lễ cũng từng nghe qua một chút về những chuyện này. Dù khi ấy đang chinh chiến nơi Tây Bắc, nhưng sự việc năm đó gây chấn động đến mức ngay cả bẳn thân hắn cũng không tránh khỏi nghe được vài lời đồn đại.

“Đều là nhân tài trụ cột cả, đúng lúc triều đình đang cần người. Nếu cứ để uổng phí như vậy thì thật quá đáng tiếc. Văn Hựu, ngươi hãy thảo một chương trình, dựa theo thứ hạng và năng lực mà triệu họ nhập triều làm quan.”

Công Tôn Hoàn lần lượt ghi lại từng điều một.

Cơ Dần Lễ tiện tay nhận lấy lý lịch của hai người còn lại, vừa lật xem thì chợt nhớ ra điều gì, liền nói với người bên cạnh: “Hạ chí sắp đến, nghi lễ tế Trời cũng sắp cử hành. Ngươi phái người đi báo cho vị Trần Thám Hoa, bảo hắn thay mặt tân đế soạn một bài phú để dâng tế Hạo Thiên Thượng Đế đi.”

Công Tôn Hoàn nghe vậy, không khỏi cảm thấy mừng thay cho vị Trần thám hoa.

Có lẽ những người tuổi đã cao, đầy toan tính, lại càng thích giúp đỡ những hậu bối trẻ tuổi còn nhiệt huyết, đặc biệt là Trần thám hoa với ánh mắt trong sáng, tính cách có vẻ ngây thơ thuần khiết, nhìn vào khiến người ta cảm thấy dễ chịu, nên y cũng không tránh khỏi có ấn tượng tốt hơn về người đó.

Công Tôn Hoàn biết rõ Trần Thám Hoa ở Hàn Lâm Viện vốn chỉ ngồi ghế lạnh, bình thường chỉ làm những việc vụn vặt tầm thường ở góc xó, những việc béo bở như thảo thảo chiếu lệnh, làm phú… xưa nay chưa từng đến lượt hắn. Nay đột nhiên được điện hạ giao cho trọng trách, hẳn là trong lòng hắn sẽ vui mừng rỡ khôn xiết, cảm kích đến rơi lệ.

Trong phòng trực của Hàn Lâm Viện, Trần Kim Chiêu còn chưa kịp thở phào đã nhận được lệnh soạn thảo phú văn. Hơn nữa lại là phú văn ngự dụng, dùng trong nghi lễ tế trời vào dịp Lễ Tế Linh sắp tới!

Được giao cho trọng trách quan trọng như vậy khiến đôi vai nàng bỗng thấy nặng trĩu, như thể có ngàn cân gánh nặng đè xuống không buông.

Vào khoảnh khắc ấy, nàng cảm thấy như Thái Sơn đè xuống đầu, lại như có một tin dữ bất ngờ ập đến, phủ chụp toàn thân nàng.

Từ trước đến nay, công vụ được phân cho người trực đêm nhiều lắm cũng chỉ là phác thảo một chút chiếu chỉ nhỏ, hoặc chỉnh sửa đôi chỗ cho mượt mà hơn? Làm gì từng được giao phó trọng trách lớn đến mức này!

Hơn nữa, theo thông lệ, những bài phú dùng trong các đại lễ như thế này thường do các quan viên từ bậc Thị độc học sĩ của Viện Hàn Lâm trở lên soạn thảo, sao lại đến lượt nàng chứ? Thật ra cũng không nên đến lượt nàng.

Nàng có đức có tài gì chứ? Làm gì có đức có tài gì đâu!

“Ôi!” Trần Kim Chi vỗ lên trán rồi kêu lên một tiếng, nàng đẩy bàn đứng dậy, vội vã chạy ra ngoài rồi lo lắng nhìn quanh. Lúc này nàng mới chợt nhớ ra, lúc nãy vì quá hoảng hốt nên quên mất hỏi ngày phải nộp bài phú rồi!

Lúc này bên ngoài Hàn Lâm Viện vắng lặng không một bóng người, còn đâu thấy được vị nội giám truyền lệnh khi nãy?

Trần Kim Chiêu không cam lòng lại đuổi theo một đoạn đường dài. Nhưng khi vẫn không thấy bóng dáng vị nội giám kia, nàng đành phải bỏ cuộc và trở về.

Nàng thấp thỏm quay về phòng trực, trong đầu chỉ văng vẳng bốn chữ “phú văn ngự dụng”. Nhớ lại khi xưa, trong sáu hạng mục của kỳ thi khoa cử, thơ phú chính là phần nàng yếu nhất. Năm ấy, dù đã dốc sức khổ luyện để ứng phó kỳ hội thí thì bài thơ phú của nàng cũng chỉ ở mức trung bình. Nay đã hai năm buông lơi, nàng thậm chí không dám tưởng tượng mình sẽ viết ra thứ gì cho ra hồn.

Nàng bất giác ngẩng đầu nhìn ra khung cửa sổ. Trời đêm vẫn còn dày đặc, nhưng vầng trăng sáng đã bắt đầu lệch về phía đông. Điều đó khiến lòng người không khỏi dâng lên một cảm giác bồn chồn và gấp gáp.

Bài phú ngự dụng này rốt cuộc phải nộp khi nào? Không biết có gấp không? Tháng này hay tháng sau? Giữa tháng hay cuối tháng? Hai ngày nữa hay mấy ngày nữa?

Chắc không phải là đêm nay chứ!

Vừa nghĩ đến khả năng cuối cùng ấy, nàng lập tức cảm thấy khó thở, tay cầm thỏi mực cũng bắt đầu run rẩy.

Không sao, không sao đâu… nàng tự an ủi bản thân như vậy.

Tuy bài thơ phú của nàng, luận về trích dẫn kinh điển thì không bằng Thẩm Nghiên, luận về từ ngữ hoa mỹ thì không sánh được với Lộc Hoành Ngọc, nhưng nếu phải viết một bài phú chỉn chu và tạm coi là vừa mắt trong đêm nay, thì nàng vẫn có thể làm được.

Ngọn đèn cung đình trên bàn cạnh cửa sổ trong phòng trực đã cháy suốt cả đêm.

Bấc nến của đèn cung đình cũng đã bị cắt đi cắt lại nhiều lần trong suốt đêm ấy.

Khi trời sắp sáng, Trần Kim Chiêu vẫn cúi đầu chăm chú viết trên bàn. Đống sách chất cao gần nửa người trên bàn làm việc gần như đã che kín nàng. Dưới chân nàng cũng chồng đầy những tờ giấy bỏ đi lấm lem mực, bên cạnh còn chất đống những bản thảo bị xé bỏ, mỗi tờ đều ghi chép những sửa đổi, thêm bớt, chứa đựng mọi cay đắng trong suốt đêm dài của nàng.

Khi thái giám mang bữa sáng đến gõ cửa phòng nàng, thì Trần Kim Chiêu mới giật mình nhận ra trời đã sáng rồi.

Nhưng vào lúc này nàng đâu còn chút cảm giác thèm ăn nào? Lúc này, nàng đang cẩn thận nhìn xuống tờ giấy mỏng trải trên bàn, tờ giấy mỏng ấy chứa đầy những chữ viết, là thành quả cuối cùng sau hàng chục lần sửa đi sửa lại, nàng đã dốc hết tâm huyết, dùng hết tất cả những gì học được trong đời, tra cứu vô số cuốn kinh điển như 《Chu Lễ》, 《Lễ Ký》, 《Kinh Thi》, 《Sở Từ Chương Cú》 và nhiều sách khác.

Nỗi gian nan trong đó, e rằng cả đời này nàng cũng không muốn nhớ lại thêm lần nào nữa.

Cô bắt đầu đọc thầm bài 《Hạo Thiên Thánh Đức Phú》 này, ngay cả hơi thở cũng thận trọng nhẹ nhàng, sợ rằng sẽ làm bay mất tờ giấy mỏng manh ấy.

“Duy Khang Bình nguyên niên chi tuế, Trọng Hạ sơ thủy, trẫm trai mộc vu Minh Đường…”

(Tạm dịch: Năm đầu niên hiệu Khang Bình, tiết Trọng Hạ mới bắt đầu, trẫm tắm gội trai giới tại Minh Đường…)

Vừa đọc xong phần mở đầu, trong đầu nàng lại không kiềm chế được mà lướt qua những ý nghĩ như: ‘Cách mở đầu như thế này có quá đơn điệu không?’, ‘Nếu đổi sang thể biền văn có phải sẽ hay hơn?’, ‘Chi bằng đổi thành: Duy Khang Bình chiêu thái, Trọng Hạ sơ thủy…’, ‘Hay là thiếu một đoạn miêu tả điềm lành?’, ‘Không thì thêm cảnh tử quang tường vân vào?’ và vô số những băn khoăn khác.

(Ttử quang tường vân: nghĩa là ánh sáng tím mây lành.)

Trần Kim Chiêu gắng sức kìm nén ý muốn cầm bút sửa chữa ngay lập tức. Suốt cả đêm vì mải mê trau chuốt từng câu chữ, nàng đã thêm bớt quá nhiều lần, nhưng quan trọng là sửa đến cuối cùng cũng chẳng cải thiện được bao nhiêu, thậm chí có đoạn còn không thuận mắt bằng được bản đầu tiên.

Nàng ép bản thân tiếp tục đọc thầm, giữa chừng có vô số lần cố gắng kiềm chế bàn tay phải muốn cầm bút, mới miễn cưỡng đọc hết bài văn từ đầu đến cuối.

Sau đó nàng như thể đã vắt kiệt tâm huyết mà ngồi sụp xuống chỗ ngồi với vẻ mặt đờ đẫn.

Sửa đi sửa lại không biết bao nhiêu lần, trau chuốt từng câu từng chữ, lật giở sách vở không biết bao nhiêu lượt… Vậy mà bài văn dốc hết tâm huyết suốt một đêm, đọc hết một lượt lại thấy bình thường đến thế.

Rõ ràng nàng đã tuân thủ nghiêm ngặt thể phú, lấy văn đối ngẫu làm chính, đồng thời kết hợp cả thể văn xuôi. Rõ ràng trong bài viết nàng cũng đã khéo léo lồng ghép nghi lễ, các hiện tượng thiên văn, nguồn gốc lịch sử, âm nhạc và vũ đạo, cùng toàn cảnh tế lễ Hạo Thiên… Vậy mà toàn bài phú đọc lên vẫn bình thường đến thế!

Trong khoảnh khắc này nàng chỉ muốn giật trụi tóc mình, hét lên một tiếng thê lương đầy tuyệt vọng —

Vì sao, vì sao chứ!

Chưa đến giờ Mão, vị nội giám truyền lệnh đêm qua đã quay lại.

Điều Trần Kim Chiêu lo lắng cuối cùng cũng đã xảy ra. Quả nhiên, người phía trên không cho nàng thêm thời gian, bài phú phải được lấy đi ngay trong ngày hôm đó.

“Công công, bài phú này vẫn còn vài chỗ cần sửa đổi và trau chuốt thêm. Không biết có thể linh động một chút, để lấy muộn hơn được không?”

Ít nhất cũng nên để nàng chờ Lộc Hoành Ngọc đến, để hắn giúp nàng xem thử bài phú có vấn đề ở đâu, tiện thể góp ý chỉnh sửa đôi chút. Thật lòng mà nói thì nàng không có nổi nửa phần tự tin vào bài phú của mình. Nếu cứ thế mà đưa lên cho người kia xem, nói thật lòng trong lòng nàng thực sự rất hoảng.

Nội giám nhìn sắc trời bên ngoài rồi khó xử nói: “Xin Trần đại nhân đừng làm khó tiểu nhân, tiểu nhân cũng chỉ phụng mệnh mà hành sự thôi. Nếu còn trì hoãn thêm nữa thì Nhiếp Chính Vương điện hạ cũng phải vào triều rồi.”

Trần Kim Chiêu đành nhăn mặt buồn bã để người ta lấy đi bài 《Hạo Thiên Thánh Đức Phú》.

Ngay khi quan nội giám vừa rời đi, nàng liền chắp tay trong phòng trực âm thầm khấn vái tổ tiên, cầu xin phù hộ cho nàng vượt qua cửa ải này một cách suôn sẻ.

Chương 14

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *