Thám Hoa – Chương 3

Chương 3

Phía chân trời bắt đầu ánh lên sắc trắng như bụng cá, thời gian dần chuyển sang giờ Mão.

Ngoài cổng Tuyên Trị, binh lính giáp trụ dàn hàng san sát. Trước cửa điện ngoài, những vết máu đỏ sẫm trên nền gạch bạch ngọc vẫn chưa khô, âm thầm tỏa ra mùi tanh hôi như một cuộc thị uy không lời.

Sắc mặt của các vị đại thần đang cầm hốt đứng chờ đều vô cùng khó coi.

(Hốt: Là một bản gỗ nhỏ các quan lại dùng khi vào triều.)

“Chư vị.” Nội các Thủ phụ kiêm Thái phó dạy Thái tử Chu Tế quay mặt về phía các đồng liêu, hoàn toàn không để tâm đến ánh mắt lạnh lẽo của đám binh sĩ mặc giáp sẵn sàng chiến đấu xung quanh. Ông cúi mình thi lễ thật sâu, giọng nghẹn ngào khẩn cầu: “Tiên hoàng đã không bạc đãi chúng ta, lão phu tha thiết mong chư vị khắc ghi tận tâm can, tưởng nhớ đôi phần ân huệ của tiên hoàng.”

“Thủ phụ đại nhân!”

“Xin đừng như vậy, xin đừng như vậy!”

“Đại nhân quá lời rồi!”

Các quan viên vội vã ùa lên phía trước, luống cuống đỡ người kia dậy. Những triều thần gặp nạn ôm chặt lấy nhau, nghẹn ngào khóc lóc trong đau thương.

Trần Kim Chiêu và Lộc Hành Ngọc đứng ở vị trí phía sau, vào lúc thế này dĩ nhiên không đến lượt hai người họ tiến lên. Vì vậy, họ cũng như phần lớn các đồng liêu xung quanh mà giơ tay áo lên che mặt, lặng lẽ lau nước mắt. Trong khoảnh khắc ấy, hai người nhanh chóng liếc nhìn nhau một cái, ánh mắt hiện rõ vẻ lo sợ và nghiêm trọng.

Ý tứ của Chu các lão là chớ quên ân huệ của tiên hoàng, tuyệt đối không được phản bội, quốc gia đại sự không thể để kẻ khác nhòm ngó. Phải giữ vững chính thống, dốc hết sức mình phò tá Thái tử đăng cơ trước linh vị của tiên hoàng.

Nhìn vào tình thế hiện nay, nếu Duyện Vương thực sự có lòng dung thứ để Thái tử đăng cơ, thì đã không để linh cữu của tiên hoàng nằm lại trong cung đến nay vẫn chưa phát tang. Thậm chí còn phong tỏa hoàng cung suốt hơn một tháng, trong thời gian ấy không một tin tức nào từ trong cung được truyền ra, đến giờ tình hình ở Đông cung vẫn hoàn toàn mờ mịt.

Trần Kim Chiêu bằng khoé mắt liếc thấy ở nơi xa có một vị tướng mang dáng vẻ của một võ tướng đang lạnh lùng nhìn về phía các triều thần. Khóe miệng hắn khẽ nhếch lên hiện ra một nụ cười lạnh lẽo khó hiểu, khiến người ta nhìn vào không khỏi rùng mình, lòng dấy lên cảm giác ớn lạnh.

Vào đúng giờ Mão, tiếng chuông trống vang lên rền rĩ, cánh cổng hoàng cung từ từ mở ra về hai phía.

Bách quan chỉnh đốn lại y phục, rồi bước theo tiếng chuông trống vang vọng tiến vào cổng Tuyên Trị. Theo thứ tự đã định, họ đứng nghiêm trang tại quảng trường trước điện. Quan văn đứng phía đông quay mặt về phía tây, quan võ đứng phía tây quay mặt về phía đông.

Chẳng bao lâu sau, vị Ngự sử phụ trách việc kiểm tra nghi lễ bước lên đài, tay cầm sổ sách và bắt đầu xướng danh từng người.

Trần Kim Chiêu ẩn mình giữa hàng ngũ triều thần, vẻ mặt bình thản không lộ cảm xúc, lặng lẽ dùng khóe mắt quan sát tình hình xung quanh.

Số binh giáp bên trong cổng Tuyên Trị còn đông hơn cả phía ngoài điện, có lẽ là nhiều hơn gấp đôi. Bất kể là binh sĩ hay tướng lĩnh, ai nấy đều mặc giáp trụ kiên cố, tay cầm binh khí sắc bén. Trên giáp phục loang lổ những vệt máu khô, như thể vừa từ chiến trường ác liệt trở về. Sát khí hừng hực như có thể chạm thấy, khiến người ta không dám nhìn lâu.

Cố nén nhịp tim đang cuồng loạn, ánh mắt nàng lập tức lướt qua người binh sĩ mặc áo giáp đang đóng cánh cổng hoàng cung.

Hai cánh cửa lớn nặng nề của cổng Tuyên Trị chỉ hé mở trong chốc lát rồi lại khép chặt một cách chậm rãi, không một kẽ hở. Vài binh sĩ mặc áo giáp khiêng cánh cửa gỗ sơn đỏ lên, tiếng “khoang” vang lên nặng nề khi then khóa được đóng lại, như một hồi chuông báo hiệu sự cách biệt với thế giới bên ngoài.

Cánh cổng Tuyên Trị lại đóng rồi! Như thành lũy kiên cố, giam hãm toàn bộ triều thần bên trong.

Trần Kim Chiêu và Lộc Hành Ngọc quả thực sợ đến hồn bay phách lạc!

“Tòng lục phẩm, Hàn Lâm viện Tu soạn, Thẩm Nghiên——”

“Có thần.”

Tiếng xướng tên vang lên, tiếp nối là lời hồi đáp trong trẻo, khiến Trần Kim Chiêu đang run rẩy mới bừng tỉnh khỏi cơn hoảng loạn.

“Chính thất phẩm, Hàn Lâm viện Biên tu, Trần Kim Chiêu——”

Nghe tiếng xướng tên, nàng vội vàng hai tay nâng ngọc hốt rồi run rẩy khẽ ngẩng lên, “Có thần.”

“Chính thất phẩm, Hàn Lâm viện Biên tu, Lộc Hành Ngọc—————”

“Có… thần.”

Tiếng nghiến răng bị kìm nén khiến Trần Kim Chiêu không khỏi liếc mắt sang bên cạnh một cách kín đáo, quả nhiên bắt gặp sắc mặt của Lộc Hành Ngọc tái nhợt như tro đất.

Hai người lặng lẽ nhìn nhau trong chốc lát, ánh mắt giao nhau không lời, đều đầy kinh hoàng và sợ hãi.

Chẳng lẽ hai người họ lúc trước đã suy đoán sai hay sao, lần này thật sự phải chết trăm lần cũng không có đường sống à?

Nửa tuần trà trôi qua, việc xướng tên đã kết thúc.

Ngự sử đưa danh sách triều thần về phía thái giám đang đứng bên cạnh, rồi lặng lẽ trở về hàng.

Quảng trường rộng lớn trước điện dần chìm vào tĩnh lặng.

Qua giờ Mão, lẽ ra trời đã bắt đầu sáng, nhưng mấy ngày liền mây đen dày đặc, dù có chút ánh sáng ló rạng, cũng nhanh chóng bị mây đen u ám che khuất.

Cả quảng trường trước điện chìm trong một bầu không khí u ám và ngột ngạt.

Theo lệ thường, sau khi xướng tên kết thúc sẽ là ba tiếng trống vang lên báo hiệu hoàng đế giá lâm. Tiếp đó, toàn thể bá quan đồng loạt quỳ lạy tung hô vạn tuế, còn thánh thượng thì theo nghi thức mà xuất hiện và ban lời khích lệ.

Ban vài lời khích lệ để biểu thị ân đức. Sau đó, thánh thượng sẽ đi vào trong điện, các quan từ tứ phẩm trở lên theo sau để vào điện nghị chính. Những quan lại còn lại thì rời đi về nha môn, theo sự phân công của quan trên mà xử lý công vụ và làm việc theo chức trách.

Thế nhưng nay hoàng đế đã băng hà, thái tử lại chưa xuất hiện, văn võ bá quan như rồng mất đầu, giờ phút này ngoài việc đứng chờ tại chỗ trong tĩnh lặng thì cũng chẳng ai biết nên đi đâu hay phải làm gì.

May thay, không để bá quan phải chờ lâu, thái giám vừa kiểm tra xong danh sách liền cao giọng xướng lên:

“Truyền, các đại thần từ tứ phẩm trở lên vào điện tham dự triều nghị——————”

“Các quan viên còn lại hãy đến nha môn của mình để thi hành công vụ, không được trì hoãn——”

Thật ngoài dự liệu, mọi nghi lễ vẫn diễn ra như thường lệ. Phải nói rằng, ngay khi giọng xướng cao vút và sắc bén của thái giám vừa dứt, sắc mặt căng thẳng của hơn nửa số triều thần nơi quảng trường trước điện liền dịu xuống thấy rõ. Không ít người đưa tay áo lên lau mồ hôi lạnh trên trán, như vừa thoát khỏi một kiếp nạn.

Thế nhưng những vị đại thần sắp vào điện nghị chính vẫn mang vẻ mặt u ám nặng nề.

Họ theo phản xạ đưa ánh mắt nhìn về phía đầu hàng – nơi có Thủ phụ đại thần Chu Tế. Chu Thủ phụ ngẩng đầu nhìn về cuối bậc cao đài, nơi điện Tuyên Trị sừng sững, rồi khẽ vung tay áo, nâng ngọc hốt, nhấc chân bước lên từng bậc thềm.

Các quan viên còn lại cũng lập tức nối gót theo sau.

Đợi đến khi các vị đại thần đều đã theo đường ngự giá mà bước lên bậc thềm, thì những quan viên còn lại mới giải tán khỏi hàng ngũ dài, từng nhóm ba người, năm người đi cùng nhau, lần lượt hướng về nha môn của mình để tiếp tục công việc.

(Đường ngự giá: đường vua đi.)

Nha của Hàn Lâm viện không cùng hướng với lục bộ nha môn, vì vậy số quan viên đi về phía Hàn Lâm viện rõ ràng ít hơn hẳn. Đảo mắt một vòng, Trần Kim Chiêu dễ dàng nhận ra có bao nhiêu người của Hàn Lâm viện đã vắng mặt.

(Nha: Văn phòng làm việc)

Tính tổng cộng lại, ước chừng khoảng mười mấy người. Nếu muốn tính chi tiết hơn, thì đại khái là Hàn Lâm viện học sĩ thiếu năm người, Hàn Lâm viện thị độc học sĩ thiếu ba người, Hàn Lâm viện thị giảng học sĩ thiếu ba người, Hàn Lâm viện tu soạn thiếu hai người, Hàn Lâm viện kiểm thảo thiếu một người, thứ cát sĩ thiếu hai người.”

Không cần phải nói, những vị quan vắng mặt lần này e là lành ít dữ nhiều.

Tuy rằng quan viên của Hàn Lâm viện có đến mấy chục người, nhưng việc nhiều gương mặt quen thuộc quanh mình bỗng dưng biến mất khiến lòng người không khỏi rúng động.

Ngay cả Hàn Lâm viện còn như thế, thì e rằng các nha môn khác cũng chẳng khá hơn là bao. Nhất là Binh bộ, Hộ bộ và Hình bộ – ba bộ có quyền lực lớn nhất, lợi lộc nhiều, từ xưa đến nay luôn là chỗ các quan tranh giành đến đầu rơi máu chảy, chỉ sợ là tình hình còn thê thảm hơn nữa.

Khi bước vào nha môn, Trần Kim Chiêu và Lộc Hành Ngọc lặng lẽ nhận công việc rồi trở về chỗ ngồi làm việc. Đối với những biên tu như họ, công việc quan trọng nhất thường ngày không gì khác ngoài việc soạn thảo chiếu chỉ. Tất nhiên, loại công việc tốt đẹp như thế không phải ai cũng có vinh hạnh được đảm nhận. Người được giao soạn chiếu chỉ thường là những người tài hoa xuất chúng hoặc được người đứng đầu Hàn Lâm viện đặc biệt coi trọng. Còn những nhân vật tầm thường và đứng bên lề như nàng và Lộc Hành Ngọc thì chẳng nằm trong số đó.

Hai người họ thường ngày chỉ làm những việc lặt vặt như hiệu đính điển tịch hoặc sắp xếp văn thư.

Hôm nay cũng vậy.

Trần Kim Chiêu cẩn thận mở sách cổ và chăm chú hiệu đính từng dòng một cách tỉ mỉ. Chưa từng có lúc nào nàng cảm thấy công việc khô khan này lại có thể mang đến cảm giác thân thuộc đến thế. Được ở trong nha môn quen thuộc, ngồi tại vị trí quen thuộc, làm công việc quen thuộc trong tay, dù tình hình bên ngoài vẫn còn mờ mịt, nhưng lúc này lòng nàng rốt cuộc cũng thấy vững vàng hơn nhiều.

Đặc biệt là khi so sánh với các vị đại thần quyền quý đang ở trong điện Tuyên Trị lúc này, không rõ họ đang phải đối mặt với cơn phong ba bão táp nào, thì sự ổn định mà nàng đang có lúc này lại càng trở nên quý giá vô cùng.

Nhân vật nhỏ bé có nỗi uất ức của nhân vật nhỏ bé, nhưng cũng có sự bình yên riêng của nhân vật nhỏ bé.

Mà lúc này bầu không khí trong điện Tuyên Trị căng như dây đàn, sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào.

Dưới sự dẫn đầu của Chu thủ phụ, các đại thần đứng nghiêm trong điện, đối mặt với đám binh tướng kiêu căng và hung hãn dưới trướng Duyện Vương, hai bên trừng mắt nhìn nhau, sát khí căng như dây đàn.

Sắc mặt của Chu thủ phụ tái mét, giận đến mức không nói nên lời. Chính điện nghị sự vốn là nơi trang nghiêm và là uy nghi của triều đình, từ bao giờ lại trở thành nơi để đám binh lính thô lỗ và hèn mọn này tùy tiện bước vào, thật là lễ nghi sụp đổ, nhạc luật đảo điên! Điều khiến người ta phẫn nộ hơn nữa là, bọn binh sĩ ấy lại dám mang kiếm giày lên điện, hoàn toàn không tuân theo lễ giáo và coi thường pháp độ tổ tông!

Quả nhiên kẻ đó đã ở biên cương quá lâu, đến nỗi cách hành xử cũng bắt đầu trở nên không có quy củ.

“Duyện Vương Điện Hạ đã triệu chúng thần vào triều, cớ sao lại tránh mặt không ra gặp?”

Đảo mắt một vòng nhưng không thấy bóng dáng của Duyện Vương, Chu thủ phụ nghiêm mặt lớn tiếng chất vấn.

Vừa dứt lời, liền thấy một nho sinh ở độ tuổi trung niên nhẹ nhàng tách đám binh lí kiêu căng mà bước tới, miệng nở nụ cười ôn hòa, chắp tay thi lễ: “Lão đại nhân nói vậy là chưa đúng rồi. Chủ công đã triệu kiến chư vị đại nhân, lẽ nào lại cố ý tránh mặt không ra? Chẳng qua là người gặp việc gấp bất ngờ nên thật sự không thể phân thân, là tình thế bất đắc dĩ, mong chư vị đại nhân rộng lòng tha thứ.”

Chỉ một tiếng “Chủ công” vang lên, khiến lòng dạ của những cựu thần nơi kinh đô lạnh buốt như bị rút cạn hơi ấm.

Đã đến địa phận hoàng thành, vậy mà thuộc hạ của hắn vẫn gọi là “Chủ công”, lại còn không chút kiêng dè trước mặt các vị đại thần! Rốt cuộc bọn họ có dụng ý gì vậy?

Không thừa nhận thân phận vương gia của hắn? Vậy các người muốn thừa nhận hắn là thân phận gì?!

Loại vấn đề này… không thể suy nghĩ quá sâu.

Tuy Chu thủ phụ đã tuổi cao, nhưng ánh mắt vẫn sâu thẳm và sắc bén vô cùng.

Ông ta đưa mắt quan sát người nho sinh trung niên kia hai lượt. Người ấy mặc y phục thư sinh, dưới cằm để râu, khí chất ôn hòa mà trầm ổn. Nghe nói dưới trướng Duyện Vương có một vị mưu sĩ thường trấn giữ trong doanh trại, họ kép là Công Tôn, tên một chữ là Hoàn, rất được Duyện Vương tin tưởng, nghĩ đến đây ông ta đoán chắc hẳn chính là người này.

“Xin hỏi Công Tôn tiên sinh, liệu hôm nay Duyện Vương điện hạ có thể dành thời gian đến đây không? Nếu điện hạ không đến thì chúng thần có thể cáo lui trước được không? Triều chính đã bị bỏ bê suốt mấy tháng, kỷ cương rối loạn, chúng thần cũng cần hồi phủ để xử lý công vụ tồn đọng, khôi phục lại đời sống dân sinh và trật tự xã tắc nữa ạ.”

Vị nho sinh kia bị vạch trần thân phận nhưng không hề tỏ ra bất ngờ. Hắn chỉ mỉm cười ôn hòa rồi kiên nhẫn giải thích: “Chư vị xin hãy bình tâm. Hạ quan hiểu rõ các đại nhân đều một lòng lo cho nước và thương dân. Tuy nhiên, việc khôi phục dân sinh và xã tắc không thể hoàn thành trong một sớm một chiều. Mà lúc này, còn có việc hệ trọng hơn đang chờ chư vị định ra quy chế.” Nói đến đây, hắn thu lại nụ cười rồi nghiêm mặt chắp tay thi lễ: “Chính là lễ tang của Hoàng Đế Đại Hành.”

Hơi thở của Chu thủ phụ và các đại thần chợt nghẹn lại, sắc mặt liền biến đổi liên tục.

Cùng lúc tổ chức lễ tang của Hoàng Đế Đại Hành, chính là việc lập tân vương kế vị.

Việc tổ chức tang lễ cho Hoàng Đế Đại Hành, để Thái tử kế vị trước linh cữu rồi chủ trì nghi lễ phát tang vốn là điều mà họ đã chuẩn bị tấu trình. Thế nhưng trong buổi nghị triều hôm nay, Thái tử vẫn chưa xuất hiện, mà Duyện Vương điện hạ – người mang danh nghĩa “phò vua cứu giá” cũng không có mặt. Vì vậy, họ đành phải tạm gác lại mà không thể trình bày.

Vốn định sau khi cáo lui sẽ lập tức đến Đông Cung tìm Thái tử, nào ngờ đúng vào lúc này, người dưới trướng của Duyện Vương lại bất ngờ lên tiếng!

Không phải những bề tôi như họ không muốn sớm tổ chức tang lễ cho vị quân vương quá cố. Họ cũng không cam lòng nhìn Hoàng Đế Đại Hành nằm lạnh lẽo trong cung suốt mấy tháng, thi thể mục nát, khiến lòng người đau xót? Nhưng lễ phát tang của một vị quân chủ là đại sự của cả quốc gia, nghi lễ phải trang trọng, trình tự phải chu toàn. Vậy mà giờ đây lại bị một kẻ mưu sĩ nhỏ bé tùy tiện nhắc đến giữa buổi nghị triều, thật là quá đỗi khinh suất!

Chu thủ phụ khẽ vung tay áo, nghiêm giọng nói: “Việc trọng đại của quốc gia, phải do Thái tử điện hạ đích thân đứng ra chủ trì mới được.”

Công Tôn Hoàn không hề tức giận, hắn vẫn giữ vẻ điềm đạm rồi chắp tay thi lễ: “Thái tử điện hạ đột nhiên lâm trọng bệnh, nằm liệt trên giường, e rằng khó có thể đảm đương đại sự quốc gia…”

“Câm miệng! Sao ngươi dám buông lời ác độc như thế!!” Lần này, Chu thủ phụ thực sự nổi giận rồi.

Lời ấy vừa thốt ra, không chỉ Chu thủ phụ mà toàn thể các đại thần đều kinh hãi và phẫn nộ, sắc mặt ai nấy đều biến đổi dữ dội. Có người vì quá tức giận mà vươn tay túm lấy cổ áo của Công Tôn Hoàn rồi quát lớn: “Thái tử điện hạ đang độ thanh xuân cường tráng, sao lại nói là trọng bệnh! Ngươi là kẻ đọc sách, từng bái Khổng Thánh làm thầy, vậy mà đến lễ nghĩa cơ bản cũng chẳng biết, dám buông lời độc địa nguyền rủa Thái Tử điện hạ! Đáng giận, thật sự đáng giận!!”

Công Tôn Hoàn vẫn vững vàng như núi. Bỗng từ bên cạnh vươn ra một bàn tay to như chiếc quạt mo, vung lên một cái, chỉ trong chớp mắt, vị đại thần đang giận dữ kia đã bị tát văng ra xa nửa mét.

Vùng Tây Bắc vốn nổi tiếng với sự khác nghiệt trọng võ hơn văn, mà những binh tướng xuất hiện trong điện lúc này lại là những kẻ kiêu hùng xuất chúng trong số đó, ai nấy đều có thân hình cường tráng, võ nghệ tinh thông, mang trên mình chiến tích hiển hách khiến người người phải kính nể.

Cái tát vừa rồi như chiếc quạt mo giáng xuống, đủ khiến vị đại thần được nuông chiều nơi phồn hoa đất Kinh thành ngẩn ngơ hồi lâu chưa hoàn hồn.

Tiếng cười khinh miệt như có như không vang lên từ đám binh lính kiêu ngạo và tướng lĩnh hùng hổ, nhưng chỉ một cái liếc mắt lạnh lùng của Công Tôn Hoàn, tất cả lập tức im bặt.

“Xin các vị đại nhân bớt giận, tiểu nhân cũng là người có học, nào dám ăn nói hồ đồ, nguyền rủa Thái tử điện hạ? Điện hạ vốn nhân từ hiếu thuận, từ hơn một tháng trước đã vì quá đau buồn mà tổn hại nghiêm trọng đến thân thể, gắng gượng đến nay đã là cực hạn. Chính vì thế mà chủ công mới dốc sức để phong tỏa tin tức trong cung, chỉ e nếu truyền ra ngoài sẽ gây ra biến loạn lớn hơn.”

Công Tôn Hoàn thở dài: “Hôm nay chủ công triệu các vị đại nhân đến, ngoài việc muốn bàn bạc chuyện tang lễ của tiên hoàng, vốn còn định để chư vị thương nghị một phương án cho việc của Thái Tử. Nào ngờ sáng nay, thân thể của Thái Tử đột nhiên chuyển biến xấu nghiêm trọng, e rằng… Vì lo chuyện bất trắc nên chủ công không dám rời Đông cung nửa bước, đích thân ở bên chăm sóc bệnh tình của Thái Tử, nên không thể đến điện Tuyên Trị để cùng nghị chính với các vị được.”

Trong điện lặng ngắt như tờ suốt hơn nửa khắc.

Công Tôn Hoàn cũng không phá vỡ sự tĩnh lặng ấy, mặc cho các cựu thần của lão hoàng đế ở phía đối diện đang cố gắng tiêu hóa tin dữ động trời này, cũng mặc cho ánh mắt của Chu thủ phụ…

Đôi mắt già nua đỏ rực như máu ghim chặt vào khuôn mặt hắn, tựa như muốn lột da xẻ thịt hắn ra từng mảnh vậy.

Sau một hồi lâu, giọng nói khàn khàn đầy từng trải của Chu thủ phụ vang lên: “Đã là thân thể của Thiên Tuế có bệnh, thì chúng thần không thể khoanh tay đứng nhìn. Nay hãy cùng đến Đông Cung, quỳ trước điện để cầu phúc cầu thọ cho Thái tử điện hạ.”

Câu nói ấy dĩ nhiên là nhằm vào các vị thần tử trong triều và trong điện, không một vị đại thần nào là không hưởng ứng đề xuất này.

Chẳng bao lâu sau, Chu thủ phụ đã dẫn các vị đại thần rồi cùng nhau bước về phía cửa điện.

“Chư vị đại nhân, chủ công đã có chiếu lệnh, trước khi việc phát tang của Hoàng Đế Đại Hành được bàn bạc và định ra quy chế, bất kỳ ai cũng không được rời khỏi điện Tuyên Trị nửa bước.”

Giọng nói ôn hòa vang lên từ phía sau, nhưng Chu thủ phụ hoàn toàn làm ngơ, bước chân không hề chậm lại dù chỉ một chút.

Công Tôn Hoàn nhìn theo bóng lưng của họ, mà không thốt ra thêm một lời nào nữa.

Tia chớp bất ngờ xé toạc bầu trời, và cơn mưa đã âm ỉ suốt cả đêm cuối cùng cũng đổ xuống dữ dội.

Đúng lúc ấy, một tiếng khóc già nua đầy bi thương vang lên từ điện Tuyên Trị —

“Thành Trí à, con đã vì nước mà tận trung rồi——”

Tiếng khóc bi thương vang vọng giữa bầu trời Tử Cấm Thành đang cuồn cuộn mưa gió, kéo dài mãi không tan.

Chương 4

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *